TIN TỨC

Thạch Lam: Bóng hoàng lan xao động

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-03-25 09:45:05
mail facebook google pos stwis
1977 lượt xem

“Nga đến, trên con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ dưới vòm sáng vắt ngang mái tóc. Thanh từ trên tràng kỷ lẳng lặng ngồi dậy, cố giấu đi phút xáo động của niềm hân hoan. Là nàng, người con gái vẫn nhặt hoa hoàng lan với chàng thuở nhỏ….”. Những dòng văn nhẹ như áng thơ ấy dẫn Thanh bước vào tình yêu tuổi trẻ, dẫn ta bước vào thế giới trong như một mảnh trời xanh của Thạch Lam.

Chất thơ trong từng trang viết

Tấu khúc của văn chương là một bản cello với những giai âm đa tầng. Chúng rung lên như một chiếc lá giữa những đợt chuyển mình của gió, dìu dặt đón lấy hơi thở của đất trời rồi thả mình chao liệng giữa thinh không. Trong đó, tôi nghĩ những nốt trầm nhẹ bẫng dành riêng cho Thạch Lam, ông gảy nên nốt Đô rồi thả tay đến âm Rê, sẽ sàng chuyển sang Mi, còn Sol sẽ là bậc âm cao nhất, cũng là bậc âm cuối cùng. Có người bảo thứ văn ấy nhẹ như những cánh bướm non khẽ đậu trên trang giấy, chúng đậu vào lòng người bằng thế giới nghệ thuật được khúc xạ qua lăng kính của ông.


Nhà văn Thạch Lam.

Khác với những cây bút của “Tự lực văn đoàn”, đề tài quen thuộc của Thạch Lam không phải những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly, những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của lề thói đạo đức phong kiến như “Đoạn tuyệt”, “Hồn bướm mơ tiên”… Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về những phận đời bé mọn trong xã hội. Họ là người trí thức, người nông dân, người lao động phải vật lộn giữa hiện thực và ước mơ. Đó là hai đứa trẻ thức đợi đoàn tàu trên một phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ), là tình yêu chớm nở giữa Thanh và Nga (Dưới bóng hoàng lan), là cô Tâm hàng xén, đôi hàng gánh cong xuống và rên rỉ (Cô hàng xén), là mùa đông xứ Bắc, hai chị em Sơn lén mẹ lấy áo bông cũ tặng cái Hiên đang tím tái vì gió lạnh (Gió lạnh đầu mùa),…

Thật ra, mỗi nhà văn đều có những không gian nghệ thuật của riêng mình. Mạc Ngôn có vùng quê Cao Mật tiêu điều, rách nát, ám ảnh trong những niềm “hoan lạc”, Nguyễn Tuân có không gian ký vãng được dựng nên từ hồi ức và cái đẹp cổ kính, với Thạch Lam nơi ông thả những suy nghĩ xuống trang giấy là phố huyện Cẩm Giàng. Dưới ánh trăng lợt lạt màu xám bạc như gương mặt của thị xã, ông lắng nghe cuộc đời.

Màu xanh trong văn Thạch Lam tĩnh lặng, như thứ mực xanh lắng lại dưới đáy của một ly nước mát. Từ đó, những miền đời cô tịch dần hiện lên trên bức phông nền không gian, thời gian. Khung cảnh thường thấy là những làng quê xứ Bắc, những khu chợ tồi tàn với bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn, những phố huyện nghèo khổ, thê lương. Trữ tình, ấm áp và nhẹ nhàng, thế giới ấy bất chấp những khái niệm về cốt truyện thông thường, đã kể những chuyện tình ngọt ngào nhất thế gian mà cũng buồn bã nhất thế gian.

Một thứ văn chương với những vực xoáy, những run rẩy, những cuồng nhiệt, những rụt rè, những tàn phai. Lam không bắt ta bước vào một mê cung ngột ngạt, một cuộc rượt đuổi điên cuồng nhưng những tình tiết dù nhỏ nhặt vẫn làm người đọc phải bồi hồi, suy ngẫm. Đan xen vào những ký ức buồn vui của tuổi mới lớn, trong sáng và mong manh như những hạt sương là ký ức tuổi thơ, tình yêu thời son trẻ, tình cảm gia đình và cả những rung động ngây ngô những năm thiếu thời. Phải thôi, vì từ niên thiếu, Thạch Lam đã gắn đời mình vào đời của những người nghèo sớm bị đẩy vào miền lãng quên của thời cuộc.


“Gió lạnh đầu mùa” là tập truyện ngắn đầu tiên của Thạch Lam, xuất bản năm 1937.

Ở không gian nghệ thuật ấy luôn có sự xuất hiện giữa ánh sáng và bóng tối. Trong Hai đứa trẻ, những đốm vàng le lói mà Thạch Lam vẽ là sự tàn lụi chăng? Không, chúng là những vì sao. Lam đi bắt sao. Ông không vẽ về lãng quên vì cuộc đời đã quá nhiều những bi ai, đoạn tuyệt, con người thì chẳng nên để cuộc đời nhuốm màu xám tro. Nên Lam không than khóc, ông cho chúng ta chút ánh sáng le lói về đời. Thạch Lam là vậy, một mình một kiểu theo lối rẽ riêng.

Giữa nhịp đời đen tối, nhàn nhạt, chỉ có bóng đêm, Thạch Lam vẫn vẽ ánh sáng, rồi vẽ những vệt sáng qua khung cửa sổ, vẽ cỏ cây, vẽ những con người khốn khổ háo hức đợi đoàn tàu, sự sống tràn vào trang viết của Thạch Lam, phố huyện bừng sáng, cuộc đời căng mọng, ước mơ lại đâm chồi. Ông vẽ những căn nhà với những bóng hoàng lan, những tấm rèm phơ phất, những cuộc tình tươi đẹp, người chủ của những căn nhà ấy hẳn là rất yêu đời, chỉ khi yêu đời người ta mới trang hoàng nhà cửa. Chán đời người ta chẳng thiết tha.

Văn chương khiến “người gần người” hơn

Trong những tác phẩm của mình, Thạch Lam khiến tôi nhớ đến Fyodor Dostoevsky như một người thầy với triết lý nổi tiếng “Cái đẹp cứu rỗi thế giới!”. Dostoevsky viết trang nhật ký của kẻ mộng mơ, ông từng sa vào nỗi cô đơn, vào bệnh tật, vào những cơn thiếu ngủ, vào những tranh đấu bên trong bản ngã của con người. Và một trong hai văn hào vĩ đại nhất nước Nga đã viết thế này: “Con người thỉnh thoảng, bằng một tình cảm phi thường và nồng nhiệt, họ yêu sự đau khổ: đó chính là sự thật.” Theo Dostoevsky, sự đau khổ luôn đeo đuổi chúng ta, cuộc đời chỉ là một tiến trình thay đổi trọng tâm của nỗi đau chứ không thể nào di dời nỗi đau, sẽ luôn có thứ gì đó làm chúng ta đau đớn.

Còn với Nguyễn Tường Vinh “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta không ngờ tới”, song chính bản thân Thạch Lam cũng từng tâm sự rằng: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường cái sống”.

Thạch Lam là một thi sĩ, ngay cả khi viết truyện ngắn ông cũng là một thi sĩ hơn là một văn gia, và ông đã làm đúng như những gì Dostoevsky đặt ra. Mỗi truyện ngắn của ông như một bài thơ về những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc của tình người. Ông nuốt hết mọi chất độc, ông căng hồn mình như một cánh diều no gió rồi lắng nghe cuộc đời thổi vào đó những hợp âm.

Nhưng nếu không như thế, Lam sẽ không thể viết ra những câu văn đầy chất thơ, rằng “bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ”, “sương mù xuống phủ cả cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi”, rằng “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

Xúc cảm ấy chỉ có thể bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam biến đổi những chất liệu thô từ hiện thực thành hình tượng, những chất liệu thị giác thành chất liệu xúc giác, ông đi từ thế giới này sang thế giới kia như đã biết lối tắt dẫn hiện thực vào giấc mơ, ông là một nhà văn lãng mạn đích thực.

Phạm Quỳnh, chủ báo Nam Phong từng viết: “Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy”.

Trong những năm 1930, cái nghịch lý hiển nhiên, sự đối thoại trực diện của chủ nghĩa lãng mạn với một nề nếp thơ ca chở đạo đã tạo ra một cơn địa chấn, khai nguyên một ngôn ngữ mới. Trên quãng đôi mươi, Thạch Lam bước vào văn đàn với tất cả mộng ước và nhạy cảm của một tâm hồn yêu sự sống. Tương tự tư tưởng của các cây bút cùng thời, ông vắt ra từ thế giới nội tâm của con người những đớn đau, quằn quại.

Ông coi văn chương là cái đẹp man mác len lỏi khắp thế gian. Nhưng hơn tất cả chúng phải là một thứ khí giới “thanh cao và đắc lực”, vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm “trong sạch và phong phú hơn”. Ta đọc văn ông như nghe một chiếc đĩa than trên máy hát, chạy hết lớp giai điệu này đến lớp giai điệu khác, miên man, trầm bổng nhưng vẫn đủ khiến ta tỉnh táo để trăn trở và suy tư.

Đã mấy chục năm trôi qua, trong dòng chảy văn chương cuộn xoáy, đôi người đã đến, đôi người rời đi. Nhưng Thạch Lam vẫn là một dấu ấn đặc biệt, nhẹ nhàng như bóng hoàng lan nhưng vẫn khiến tôi xáo động cõi lòng.

Tôi ước sao có thể ôm lấy cuộc sống một cách thắm thiết như anh, Thạch Lam ạ. Thật may, anh bảo luôn có hoàng lan cho những kẻ muốn nhìn chúng.

 Phan Thiên Di/VNCA

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm