TIN TỨC

Tình đất, tình người trong thơ Đoàn Thị Ký

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-30 11:48:10
mail facebook google pos stwis
2279 lượt xem

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     Nguyễn Văn Hòa

 

 Đoàn Thị Ký làm thơ từ khá sớm và tiếng thơ của chị cũng được nhiều người biết đến. Bởi chị có một số bài thơ như: Nửa vòng bông gạo, Thẫm chiều tạo được dấu ấn với bạn đọc bởi lời thơ giản dị, chân chất nhưng đầy da diết, yêu thương.

Thơ Đoàn Thị Ký luôn hướng về những giá trị truyền thống, về nguồn cội, quê hương với lời cảm tạ chân thành nhất. Thơ chị luôn là tiếng nói trung thực của bản ngã với những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về những chặng đường mà chị đã trải qua.

Là người có điều kiện đi và sống ở nhiều nơi, từng kinh qua nhiều công việc khác nhau nên Đoàn Thị Ký có vốn tư liệu thực tiễn khá dồi dào. Đây chính điều kiện thuận lợi để chị giúp chị có nguồn cảm hứng, tạo chất xúc tác cho hành trình sáng tạo thi ca.

Dọc theo hành trình thơ Đoàn Thị Ký, từ tập Dòng sữa nuôi tôi ( In chung năm 1975) đến Cô gái và cầu vồng (1995), rồi Nửa vòng bông gạo (2001) và Hà Nội thời có nhau (2010), người đọc sẽ nhận ra điểm nổi bật và cũng là nét riêng của thơ chị đó là “nhật ký hành trình”: Đời - Người - những vùng đất mà nhà thơ đã đi qua. Vì thế, trong thơ Đoàn Thị Ký, xuất hiện hầu khắp các địa danh của mọi miền đất nước. Nhưng nhà thơ dành tình cảm nhiều nhất vẫn là Hà Nội. Tất cả được chị ghi lại bằng thơ với những dấu ấn riêng theo cảm quan và sự rung động của trái tim người đàn bà đa cảm.

Ở đó, nhà thơ thỏa sức tung tẩy chuyện của người, của mình, của đời với bao nỗi thương nhớ, khắc khoải, da diết khôn nguôi. Người làm thơ đi nhiều là lợi thế, nhưng ghi lại bằng thơ trên từng chặng đường, từng địa danh mà mình đã đi qua thì ít người làm được như Đoàn Thị Ký. Một Hà Giang với nỗi nhớ ngút ngàn: “Sông Lô chiều man mác/ Rơi từng ngày cuối năm/ Ai có về dưới đấy/ Cho ta lời nhắn thăm”; Một ngã tư Bảy Hiền ở đất phương Nam hiện về trong chị là hình ảnh những con người sống hào phóng, nghĩa tình, giàu nghĩa khí: “Ríu ran lắm người dưng ran ríu/ Nhường nhau đi trước, trước không đành/ Thương mến ngã tư người hiền thế/ Hay là người biết khế còn chanh…”; Một Tháp Mười với nhiều kênh rạch, xuồng gắn máy, xuồng chèo tay và sự hào sảng trước cuộc sống lao động với gió nước đặc trưng vùng sông nước: “Tôi kịp giấu bông sen trước ngực/ Gió đổi chiều hay dòng kinh xoay hướng khác, thảng thốt nhìn gió bứt tình tôi”; một Lào Cai mây trắng ngang trời, chút lạ lẫm của Sa Pa làm nên điều thú vị, để rồi người thơ ấy không dấu vẻ kiêu ngầm:  “Ngẩng mặt Hoàng Liên trào thi hứng/ Ngoái Hồng Hà má lựng bồ quân”; một Tây Nguyên đặc trưng: “Đác tiếng dân tộc Ê Đê, Ba Na là nước/ Miền đất điệp điệp cái tên: Đácglay, Đáchà, Đácmin, Đácrlấp... gợi nước đầy buôn, đầy làng/ Nước sinh ra từ cánh rừng/ Cánh rừng ngậm trầm tinh hoa của nước/ Đàn tơ-rưng làm bằng ống lồ ô, thanh âm không trong như tiếng hạc, mà như thác đổ, như suối reo...”; và với mảnh đất thiêng Hà Nội thì có nhiều điều để Đoàn Thị Ký gửi gắm những nỗi suy tư, khát vọng, niềm tin của mình vào đó (chị có hẳn 1 tập Hà Nội thời có nhau gồm 47 bài thể hiện rõ nét thái độ, quan điểm, tình cảm của nhà thơ về đất và người ở nơi đây).

Đoàn Thị Ký viết về những điều xung quanh mà chị nhìn thấy, chị cảm nhận, suy tưởng. Nhưng cũng từ những điều giản đơn, gần gũi, quen thuộc ấy lại mở ra những chân trời, những chiêm cảm sâu sắc về cuộc đời. Từ tên những con phố của Hà Nội, hay hình ảnh những người đàn bà, hạt vừng, cọng rau dớn, dòng sông tháng ba, lũy tre làng: “Hoa bưởi thơm như ướm/ Mùa xuân lên tre làng”... cũng đều để lại cho chị những suy ngẫm và liên tưởng đến cuộc sống cõi người.

Thơ ca chính là hình thức đặc biệt để con người tư duy và cảm nhận cuộc sống. Đoàn Thị Ký đã gửi vào thơ nỗi lòng thổn thức với cái chung và cả những điều riêng. Quyển sổ hộ khẩu ngỡ rằng chẳng có gì là thơ, vì một thời nó mang dấu ấn xã hội, gắn với lương thực, thực phẩm… vậy mà nó thành thơ, nhờ trải nghiệm từ thực tiễn đời mình trước cuộc sống thời hiện đại, mọi thứ xảy ra chóng vánh, người ta thường hay quên quá khứ, đặt nặng vấn đề tiền bạc, quyền lực. Và điều ấy dẫn đến bao bất cập, không hay, vô cảm lại mặc nhiên có đất sống. Điều hay, lẽ phải đôi lúc bị nhập nhòa. “Thời cơ chế cho nhau,/ Con người đậm dấu son quyền lực// Lòng sung/ Lòng vả/ Nhạt màu!” (Ngày nhận giấy báo không được nhập khẩu Hà Nội).

Trái tim nhạy cảm, dễ xúc động nên điều gì xảy ra quanh chị cũng khiến tâm hồn xao động, thậm chí chị đau như chính chị là người trong cuộc. Bài thơ Má đi kiện biết thu Hà Nội viết về một bà má từ tận Bến Tre ra Hà Nội kêu oan về đất đai, đau đáu mà chua chát. Đau đáu bởi con phố Mai Xuân Thưởng có Phòng tiếp dân một thời, nằm đối diện Phủ Chủ tịch và Lăng Bác qua một con đường, chua chát bởi :

Mùa thu lạ quá con ơi/ Đêm qua má ngủ ngoài trời thấy sương/ Sáng ra người nhẹ ttơ vương/ Dù đang đi kiện trăm đường cam go/ Con đừng lo má tay vo/ Má có lý lẽ/ Bác Hồ thương dân/ Ở đây Lăng Bác rất gần/ Đêm đêm yên tĩnh khắp sân sáng lòa.../ Đất nhà má đất ông cha/ Trồng lúa lúa tốt, trồng dừa dừa sai!/ Mấy người lấy cớ đất đai/ Liên doanh này nọ, dài dài chia nhau/ Họ chừa lại cái chũm cau/ Tưởng má ít chữ nông sâu biết gì/ Tỉnh không đòi được má đi/ Trung ương chưa giải quyết, má ở lỳ tháng nay!/ Đi kiện má lại gặp may/ Biết thu Hà Nội không bay trên trời,/ Sáng ra người tỉnh cả người/ Má tin công lý vàng mười sáng soi.// Lặng theo lời má là tôi/ Với thu Hà Nội rơi rơi giọt buồn”.

Những lời chất phác, gan ruột của má được liệt kê ra lại gợi lên cho người đọc về thực trạng nhói lòng đã và đang xảy ra ở một số nơi. Vẫn còn đó những nỗi oan khiên, buộc họ phải kêu cứu đến tận trung ương và không nguôi hy vọng…

Thơ Đoàn Thị Ký nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm chất trữ tình khi thể hiện tình cảm của mình với quê hương, đất nước, bạn bè và những người thân yêu ruột thịt. Nhà thơ cũng dành những trang viết về mẹ, về cha bằng tình cảm của một đứa con đã hiểu lẽ nông sâu của cuộc đời. Lời thơ vì thế lại càng trầm tư, da diết và xốn xang hơn. Lời tâm sự của đứa con với người cha trong bài Gửi cha nghe có gì đó mang nhiều nỗi ưu tư, trắc ẩn: “Đồng bạc lẻ quanh vườn nhặt nhạnh/ Cha tặng con gái yêu đôi cánh,/ Lên cao vòm trời/ Hương cau dạo nhờ cỗ xe thần gió/ Lửng thửng mây/ dưới cánh bay/ dây tơ hồng/ Cha gỡ dây tơ hồng/ Chiếc lá bay ngập ngừng/ Bồ đài lá mít/ Cạn kiệt ông xanh/ Chệnh choạng đôi chân cây khù khì,/ Cái nhện âm i/ Sông Ngân xa bờ lênh lênh nắng/ Có dải mây như tóc cha bạc trắng/ Chưa yên lòng vì con”.

Đi qua những thăng trầm của thời cuộc, trải qua nhiều công việc, sống và trải nghiệm ở nhiều môi trường khác nhau đã cho chị nhiều vốn sống để ứng phó, thích nghi với đời: “Những sợi tóc dài đen/ Gáo nước lạ gội đầu lại rụng/ Chưa kịp rẽ ngôi dịu vầng trán bướng/ Dóng dả còi xe// Giá anh hỏi sau mỗi chuyến được gì? Em rành rẽ trả lời. Và khép cửa.../ Nhưng sao anh cứ ân cần bền bỉ/ Cất dùm em những sợi tóc mềm” (Tóc chiêm bao).

Giờ đây, khi chị đã ở vào tuổi xế chiều của đời mình, bao cảnh đời dâu bể, những biến cố thời đại được Đoàn Thị Ký nhìn nhận sâu sắc hơn. Nhà thơ khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng chủ đạo vẫn hướng về sự nhân văn nhân ái. Chứng kiến cảnh lao động nhọc nhằn, lòng chị lại trỗi dậy ký ức của những năm tháng đã qua, sự khổ ải để có miếng ăn trở thành nỗi đau thường trực, vì thế nhà thơ không khỏi ngậm ngùi: “Tay cấy lúa nước bốc hơi hầm hập/ Thương lúa giữa trời chả nón che thân/ Bóng lúa nương nhau hàng hàng ngay thẳng/ Một cánh cò bay vội dáng phân vân...” (Hạt nắng hạt vàng).

Trong cái nhìn về thời gian, nhà thơ bộc lộ nhiều nỗi trăn trở day dứt, đôi lúc chị tự vấn với chính bản thân mình trước thực tại: “Trên dòng sông ai bắc cầu mây?/ Lúa chiêm chín hạt chảy làm sắc nắng/ Tôi ngỡ mặt trời đi vắng/ Dưới là sông trên ấy cánh đồng/ Hạt phù sa phải năm nắng mười sương/ Mới nên quả, nên bông, nên nụ cười tươi thắm/ Câu hát nghĩa tình níu cong đòn gánh/ Ai cuối dòng sông tôi gửi gió thơm đồng!/ ... Năm tháng rồi qua vô tình mải miết/ Không biết trong mình có hạt phù sa/ Không biết trong mình ăm ắp lời ca/ Từ thuở trong nôi.../ Dòng sông thì thầm với tôi như thế!” (Thầm thì dòng sông).

Nhìn trên tổng thể, thơ Đoàn Thị Ký vẫn thủy chung với thi pháp thơ truyền thống nhưng vẫn gây được ấn tượng cho người đọc bởi chị có khả năng vận dụng từ ngữ, hình ảnh, tứ thơ của mình một cách ấn tượng. Người đi soi bóng mặt hồ, một bài thơ ngắn nhưng dung chứa và chuyển tải được nhiều điều về mảnh đất và con người Hà thành với những nét đặc trưng, phẩm chất đáng trân quý. “Thầm lại nét/ Hào hoa/ Thanh lịch/ Trong từng lời nói, dáng đi// Không cho riêng mình/ Cho muôn năm Hà Nội/ Còn thơm cốm ủ lá sen/ Thu về.../ Nụ hôn gió tê tê/ Sau đêm dài lắng lại/ Tất bật/ Ưu tư/ Bon chen/ Khôn dại.../ Tơ liễu thêu tranh gấm mặt hồ/ Cõi người tự diễn chẳng bầu sô”.

Mỗi câu chữ đều dạt dào cảm xúc, chứa đựng tình cảm chân thành, hồn hậu, giản dị nhưng đầy chất trí tuệ, biểu đạt đến tận cùng nỗi lòng cũng như những mơ ước, khát vọng của chính nhà thơ. Vẫn mượn lời thì thầm của dòng sông, nhà thơ lại mở ra một sự liên tưởng khác, mang nhiều ý nghĩa về dòng sông đời: “Trách cứ gì nếu bờ này có lở/ Thì bờ kia như ngực trẻ căng tròn/ Bắt đầu từ đâu tôi chưa đến tận nguồn/ Chỉ biết đến làng tôi, sông như người mắc nợ/ Tháng ba hoa gạo đỏ/ Tháng sáu về bông trắng lòng tay”.

Những câu thơ nhẹ nhàng mang tính triết lý khi nhà thơ có sự xâu chuỗi, nhìn nhận sự việc, con người trong thời đại mới với bao biến đổi khó lường. Vì thế Đoàn Thị Ký tỏ ra hoài nghi.

Nhà đổ tận đâu đâu/ Xòe bàn tay - Bàn tay mình vẫn sạch!/ Khó day mặt kẻ gây tội ác/ Những liên minh/ Vặt trí tuệ loài người như vặt lông gà, lông vịt.// Trí tuệ hướng con người vươn xa/ Trí khôn níu con người về lại/ Cái bóng của mình/ Cái bóng hằn lên da hổ/ trong câu chuyện cổ nước nhà/ Cái thiện phải lấy dây thừng ghì cái ác/ Ghì thật chặt/ Mới hy vọng sự mô phỏng thiên nhiên trên luống cày thời đại/ Làm bác trâu già mọc lại hàm răng…”(Thời đại và trí khôn).

Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Ký là cái tôi hướng nội, suy tư, nghiền ngẫm về tình yêu và bản chất của sự sống. Có một số bài thơ của chị được người đọc yêu thích vì nó chạm đến cõi sâu thẳm trong trái tim với đầy ắp những tâm tư, khát vọng rất đỗi đời thường.

Có lần sợi bông gạo bay/ Như chiếc chong chóng xoay xoay nửa vòng// Tôi đưa tay đón và mong/ Đâu ngờ gió tự vân mòng đẩy ra// Thế là bông gạo bay xa/ Nửa vòng chong chóng đã hòa thinh không...// Một mai ngọn gió thổi nồng/ Có còn bông gạo nửa vòng bay bay? (Nửa vòng bông gạo). Cái nhìn độc đáo về cảnh vật của thế giới tự nhiên làm cho người đọc bất ngờ và cảm thấy thú vị. Nhà thơ lắng nhìn và quan sát tỉ mỉ bông gạo bay và rồi suy ngẫm về chiều tương lai bằng một sự nghi vấn mà ở đó có những nuối tiếc, bâng khuâng.

Ở bài Thẫm chiều, từng lời thơ đọc lên nghe có điều gì đó hẫng hụt, man mác, rưng rưng. Chiều tim tím núi Tràng Đà/ Tôi tim tím nụ hoa cà bến sông// Có người khách cõi hư không/ Chờ con đò vãn bóng hồng nẻo sang.//Dòng sông vẫn chẳng tày gang/ Bè xuôi gối sóng đêm vàng đứt neo//Trông người... nào có người theo/ Trông trời... đôi hạt trong veo cách vời// Vẳng lên một tiếng - Đò ơi/ Sang sông lỡ chuyến, khách tôi thẫm chiều.

Đoàn Thị Ký là nhà thơ lặng lẽ nhưng say mê và sống hết mình với thi ca và bè bạn. Hành trình thơ và hành trình cuộc đời của chị dường như có sự đối sánh và song hành nhau. Ở đó, nhà thơ đã trải lòng mình trước cuộc sống để nhận thức, chiêm nghiệm, tự vấn, soi tỏ để củng cố niềm tin và sưởi ấm lòng người. Bởi hơn ai hết, Đoàn Thị Ký đã đem tất cả tấm chân tình của mình để trang trải với đời với người. Những gì chị có được hôm nay là cả một quá trình sống, làm việc nghiêm túc hết mình, sự dấn thân không mệt mỏi vì niềm đam mê thi ca./.

N.V.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm