TIN TỨC

Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-24 22:01:58
mail facebook google pos stwis
35 lượt xem

NGUYỄN PHƯƠNG HÀ

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.

 

Tập thơ "Vọng núi" của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh

 

Về nội dung cảm hứng, Vọng núi có sự mở rộng đề tài, phạm vi đời sống trong quá trình sáng tác của nhà thơ. Những tập trước, thơ Nguyệt Ánh chủ yếu là thơ tình yêu, trở đi trở lại là những cung bậc cảm xúc yêu đương, những nhớ thương, hờn giận, cô đơn, hạnh phúc và sầu muộn. Đến tập Vọng núi, chị đã biểu hiện cảm xúc, suy tư về nhiều vấn đề, phương diện đời sống hiện thực và tâm hồn con người: Từ tình cảm yêu đương, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước đến những khám phá về thiên nhiên và văn hoá bản địa Tây Nguyên, những trăn trở phận người, suy tư về thơ ca, chuyện đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, chuyện tình người thời Covid, v.v…Trong đó có ba nội dung cảm hứng chủ yếu là: Tình yêu đôi lứa, văn hoá Tây Nguyên, quê hương và người mẹ. Hẳn nhiên, việc phân chia chỉ là tương đối, tạm thời để nhận diện; về bản chất, nhiều trạng thái cảm xúc đã hoà quyện vào nhau trong các bài thơ. Tập thơ đã thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, thiết tha yêu thương, ân tình, những tình cảm đẹp đối với quê hương đất nước, niềm tin yêu cuộc sống, trân quý những giá trị tinh thần của con người. Đó là ý nghĩa nhân văn tốt đẹp đáng ghi nhận của tác phẩm.

Thơ là niềm giao cảm của con người và tình yêu là niềm giao cảm mãnh liệt, nồng nàn, say đắm nhất. Nguyệt Ánh viết nhiều bài thơ tình, nhưng ở tập thơ này, chị ít khi biểu hiện trực tiếp cung bậc cảm xúc tình yêu mà biểu hiện bằng những ẩn dụ. Chị có những bài thơ hay về tình yêu, gợi những suy tư về sự lựa chọn trong cuộc đời, về hạnh phúc và khổ đau: “Giữa bóng tối và ánh sáng/ Em chọn lối nào cho chúng ta/ Để trái tim không bị tù đày/ Ánh sáng kia làm mắt chói loà/ Không thấy đường đi làm em vấp ngã/ Trong bóng tối, anh dẫn đường, tâm hồn được hồi sinh”. Sống giữa không gian văn hoá Tây Nguyên, tình yêu của thi nhân hoà vào hình ảnh sông suối cuộn chảy, mãnh liệt và nồng cháy như ngọn lửa đại ngàn: “Vũ điệu xoang nóng bừng lên ngọn lửa/ Chạm ánh mắt anh cháy cả đại ngàn/ Tình em mãi là con sông dòng suối/ Chảy về nguồn giữa làng bản mênh mông” (Gió nay lạnh làm run chiều phố núi). Tình yêu là cảm xúc say mê đắm đuối, khát khao hạnh phúc lứa đôi: “Hoàng tử anh nhặt chiếc giày em vội vã đánh rơi/ Ta thành đôi uyên ương bay trong bầu trời hạnh phúc/ Căn nhà chật dội cơn mưa rào đẫm ướt giấc mơ em” (Lọ Lem say giấc mơ miền cổ tích), “Ngày hôn phối của mặt đất và bầu trời/ Anh quyết dụ trái tim em ngược lối/ Giữa biển mơ tràn nụ sóng hôn bờ/ Anh tan vào khoảng khắc đêm mơ/ Em chấp chới sóng ngầm nghe biển hát” (Hôm nay ngày biển động). Tâm hồn thi nhân rạo rực yêu thương và ngập tràn hạnh phúc giữa không gian hoa lá phồn sinh: “Và anh đến như mùa xuân phồn thực/ Tháng Giêng em mơn mởn dậy thì/ Bông cúc tím giấu mình sau vạt cỏ”. Tình yêu không chỉ là hưởng thụ mà còn đầy trăn trở, là trải nghiệm nỗi đau, cô đơn, chờ đợi, thất vọng, tình yêu thanh cao, đẹp đẽ mà cũng đầy luỵ tục: “Mũi tên thấm giọt đau thương tim mình chết yểu/ Anh mải mê hái những vì sao cuối tận chân trời/ Hòn vọng phu em ngàn năm bạc đầu Tô Thị” (Em độc hành hun hút phía không anh). Đôi khi là nỗi buồn của một lần lỗi hẹn: “Mắt phố chiều nay vắng anh buồn hoang hoải/ Công viên hai ghế đá nhìn nhau/ Trống vắng một chỗ ngồi” và những ẩn ức, bất lực khi phát hiện khoảng cách giữa ước vọng và hiện thực cuộc đời: “Ngàn năm anh kiến tạo mặt hồ/ Tình em hoà vào biển lớn/ Hồ anh gợi nhẹ lăn tăn/ Biển em mênh mông bất tận/ Làm sao chứa sóng mặt hồ” (Em đi tìm lời ru trên sóng)…

Cao nguyên hùng vĩ, kỳ bí và hoang sơ với nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đa dạng, độc đáo, là không gian Văn hoá Cồng chiêng, không gian Sử thi và những nghi lễ đầy huyền tích văn hoá gắn với đời sống cộng đồng các dân tộc. Trần Nguyệt Ánh thể hiện ý đồ nghệ thuật: “muốn khám phá bản sắc văn hoá, phong tục của người Tây Nguyên” và cố gắng biểu hiện những nét đặc sắc của đời sống và văn hoá Tây Nguyên. Trong mảng thơ này, Nguyệt Ánh đã thể hiện những tri nhận, suy tư và xúc cảm chân thành về thiên nhiên sông núi, về những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa: “Chiều bên dòng Krông Ana/ Con dựa vào sông Mẹ/ Lắng nghe nước chảy dọc tim mình/ Dòng tình yêu từ lòng Cư Yang Sin bất tận/ Cùng hoà nhập sông Cha/ Krông Ana hiền hoà dáng mẹ!”. Đã đến Tây Nguyên, không thể quên tiếng chiêng huyền bí, ngân nga, là âm thanh của sông núi, của hồn người, nối liền nhân thế với thần linh: “Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên/ Âm thanh cuộn trào từ dòng Sê - rê - pôk/ Bật ra từ những cánh rừng già/ Bung lên từ lòng đất ba – zan/ Tiếng của núi sông hoà vào hồn dân tộc/ Bên nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời”. Thiên nhiên, sông núi, các chất liệu văn hoá luôn gắn với những tâm tư, tình cảm, thân phận của người dân nơi đây, nhất là người phụ nữ Tây Nguyên: “Người đàn bà bên nhà sàn cô đơn/ Mượn trăng núi rừng soi bóng mình cho tỏ/ Mượn choé rượu cần để quá khứ tiêu tan/ Nhịp chiêng xoá nhoà âm thanh ngày cũ đục buồn/ Thắp lửa lòng sưởi ấm cả mùa đông/ Mảnh trăng cô đơn năm tháng ấm nồng vĩnh cửu!”.

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, rừng Tây Nguyên bị tàn phá nặng nề, bị khai thác đến mức tận diệt. Nhà thơ đã thể hiện niềm xót thương trăn trở vì môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thú rừng chim muông mất dần địa bàn cư trú: “Tiếng hươu con thảm thiết bìa rừng/ Ngọn lủa cháy không tìm đâu lối thoát/ Lũ voi rừng gọi bầy rủ nhau chạy trốn”. Những cánh rừng xưa kia làm nên đại ngàn xanh thắm nay chỉ còn là đồi khô núi trọc, những sản phẩm và giá trị văn hoá truyền thống cũng bị mai một dần: “Hỏi rừng về đâu? Thác lũ về đâu?/ Để linh hồn tượng gỗ cũng đớn đau/ Ngàn linh hồn ai oán gửi lời khẩn cầu nhân thế!” (Những linh hồn cô độc lang thang trên bầu trời). Nhà thơ không lên tiếng tố cáo hay kêu gọi mà gợi những lời tự vấn thổn thức, hay thể hiện niềm trắc ẩn, gợi giúp con người ý thức điều chỉnh thái độ, hành vi đối với thiên nhiên: “Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện/ Cong tấm lưng trần cõng cả một trời thu/ Ta là khách lãng du miền đất đỏ/ Khát khao cưỡi voi du ngoạn đại ngàn/ Chợt trong mắt em giọt châu rơi sót lại/ Cho ta nhắc mình dừng bước trước lưng em!”…

Đối với người tha hương, quê hương luôn là chốn yêu thương đi về trong tâm tưởng. Trần Nguyệt Ánh lớn lên ở Tây Nguyên nhưng quê hương Thái Bình với hình ảnh đặc trưng của đồng bằng châu thổ luôn thao thức, vương vấn: “Cánh đồng thảo thơm phảng phất mùi ngọc của trời cuối vụ/ Hương vị tuổi thơ thấm đượm quê nghèo lam lũ” (Đi xa vương vấn làng quê ngấm tận lòng mình). Nhà thơ khát khao được về thăm những danh thắng gắn với lịch sử văn hoá quê hương: “Ước cùng anh một lần về dự lễ hội chùa Keo/ Thăm đền Trần thấm nhuần công lao tổ tiên giữ nước”. Yêu quê hương, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương, nhà thơ hân hoan giới thiệu: “Em tự hào phụ nữ quê mình Năm Tấn/ Lúa thảo thơm một thời nuôi quân đánh đuổi giặc thù/ Anh hẹn đưa em về thăm Đồng Cói, Đồng Châu/ Thăm lễ hội chùa Keo, xem du thuyền, hát chèo, hát hội…”.Trong tập thơ, quê hương gắn với hình ảnh người mẹ vất vả, tảo tần và tận hiến. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật đẹp đẽ: “Mẹ đội cả bầu trời nâng cánh ước mơ con”, “Ánh mắt mẹ sáng bừng trang cổ tích/ Soi cho con thoát kiếp nhọc nhằn/ Bàn tay mẹ chai sần vất vả/ Dắt con qua vùng lam lũ mưu sinh”. Nhà thơ biểu hiện tình cảm biết ơn, yêu thương gần gũi của một người con gái đối với mẹ: “Thời gian vụt trôi mẹ quên đếm tuổi/ Mấy lần trốn trong tóc mẹ chơi trò đuổi bắt/ Mùa trôi ngang qua mắt mẹ những lần thất bát/ Võng mạc lằn sợi vất vả thâm trầm/ Con trưởng thành trên phên liếp bao dung” (Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm). Nhà thơ thấu cảm nỗi vất vả, nhọc nhằn và hy sinh của mẹ bằng sự trải nghiệm của bản thân mình, cũng vất vả, đớn đau vượt qua những thử thách của cuộc đời: “Bốn mươi năm con nếm trải cuộc đời/ Thấu hiểu những buồn vui của người từng trải/ Cũng mang thai hình hài máu mủ/ Để con thấu nỗi nhọc nhằn vất vả hy sinh”…

Về thi pháp nghệ thuật, Vọng núi là kết quả sự thể nghiệm của Nguyệt Ánh với thể thơ 1 - 2 - 3, một thể thơ mới xuất hiện những năm gần đây, có đặc điểm là ngắn gọn, cô đọng, mỗi bài chỉ có sáu câu và câu thơ đầu cũng là tiêu đề của bài thơ (gần giống thơ Hai kư của Nhật Bản nhưng số câu nhiều hơn). Đây là một thử thách đối với người viết vì không dễ gì gói gọn tứ thơ, cảm xúc, ý tưởng, hình tượng trong một dung lượng nhỏ như vậy. Nguyệt Ánh đã có sự táo bạo, nỗ lực và những thành công bước đầu được ghi nhận bằng Giải thưởng cuộc thi thơ 1 - 2 - 3 của Ban tổ chức cuộc thi trên trang Văn học Sài Gòn. Chị đã có những bài thơ hay như: Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên (tr 19), Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm (tr 21), Giữa bóng tối và ánh sáng (67), Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện (tr 71), Mẹ quên tuổi mình trên vòm lá quê hương (tr 128), vv…

Một đặc điểm rõ nét là Nguyệt Ánh dùng với mật độ khá dày phép chuyển nghĩa, lạ hoá  để tạo nên nét mới mẻ, đa nghĩa cho hình tượng thơ. Chị đã dụng công khi sáng tạo những ngôn từ và hình ảnh mới mẻ, táo bạo để tăng sức biểu hiện cho thơ: “Người đàn bà gánh sóng lên phơi”,“Thu vặn mình bật nhánh tình non”, “Mặc cho tình anh mãi vồng lên bất diệt”, “Để xuân trong em chực trào núi lửa”, “Tháng giêng em mơn mởn dậy thì”, “Con cúi nhặt bàn chân cha trong mùa đông cũ/ Ghép kỷ niệm xưa trên phiên nứa nhọc nhằn”, mầm yêu”, “nhánh mây”, “hạt mùa đông”, “nụ sóng”, “ đêm vỡ lòng”, “sợi nắng”, “ngực đất”, vv… Tuy nhiên có những trường hợp liên tưởng quá xa, tạo ra sự tối nghĩa, khó cảm nhận: “Đêm nỗi lòng tự khúc nỗi riêng em”, “Ý nghĩ chúng mình hôm nay dị bản”, “Đích cuối cùng đến mộ địa tình anh”, vv…Thơ 1 - 2 - 3 đòi hỏi sự cô đọng và có sức khái quát cao. Có lẽ vì vậy, nhà thơ đã dùng quá nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc, nhiều ẩn dụ  để xây dựng hình tượng thơ. Điều này làm chất thơ nghiêng về suy tưởng mà nhạt về cảm xúc, hạn chế tính chất cụ thể, sinh động, tươi mới và biến ảo của thi ảnh và thi cảm trong nhiều bài thơ, ví như: “Biển chiều nay định vị trái tim em/ Bước chân khách cô liêu chợt như quen như lạ/ Vô định lòng mình lạc bến nẻo xa/ Biển gọi tên em rộn khúc hoan ca/ Xếp lại nỗi nhớ nơi ngăn tim ngập chìm hoài niệm”. Đây đó vẫn thấy một số bài cảm xúc thơ chưa thật chín, chưa nhập sâu vào bản chất để biểu hiện được cái hồn của chất liệu văn hoá Tây Nguyên. Hẳn nhiên, đây là một việc khó, đòi hỏi những nỗ lực tích luỹ vốn văn hoá lâu dài, bền bỉ và sáng tạo.

Nhìn chung, Vọng núi là tác phẩm thành công của Trần Nguyệt Ánh, thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với thơ và khát vọng vươn lên, khẳng định bản sắc riêng của nhà thơ trong sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm có nội dung phong phú, mang trị nhân văn tốt đẹp và nhiều nét mới mẻ, hấp dẫn về nghệ thuật thể hiện. Đây là một đóng góp ý nghĩa của chị đối với thơ ca Đăk Lăk nói riêng, thơ ca nước nhà nói chung. Rất mong Trần Nguyệt Ánh tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và nỗ lực hơn nữa để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc hơn trong tương lai./.

N.P.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm