TIN TỨC

Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-24 22:01:58
mail facebook google pos stwis
261 lượt xem

NGUYỄN PHƯƠNG HÀ

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.

 

Tập thơ "Vọng núi" của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh

 

Về nội dung cảm hứng, Vọng núi có sự mở rộng đề tài, phạm vi đời sống trong quá trình sáng tác của nhà thơ. Những tập trước, thơ Nguyệt Ánh chủ yếu là thơ tình yêu, trở đi trở lại là những cung bậc cảm xúc yêu đương, những nhớ thương, hờn giận, cô đơn, hạnh phúc và sầu muộn. Đến tập Vọng núi, chị đã biểu hiện cảm xúc, suy tư về nhiều vấn đề, phương diện đời sống hiện thực và tâm hồn con người: Từ tình cảm yêu đương, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước đến những khám phá về thiên nhiên và văn hoá bản địa Tây Nguyên, những trăn trở phận người, suy tư về thơ ca, chuyện đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, chuyện tình người thời Covid, v.v…Trong đó có ba nội dung cảm hứng chủ yếu là: Tình yêu đôi lứa, văn hoá Tây Nguyên, quê hương và người mẹ. Hẳn nhiên, việc phân chia chỉ là tương đối, tạm thời để nhận diện; về bản chất, nhiều trạng thái cảm xúc đã hoà quyện vào nhau trong các bài thơ. Tập thơ đã thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, thiết tha yêu thương, ân tình, những tình cảm đẹp đối với quê hương đất nước, niềm tin yêu cuộc sống, trân quý những giá trị tinh thần của con người. Đó là ý nghĩa nhân văn tốt đẹp đáng ghi nhận của tác phẩm.

Thơ là niềm giao cảm của con người và tình yêu là niềm giao cảm mãnh liệt, nồng nàn, say đắm nhất. Nguyệt Ánh viết nhiều bài thơ tình, nhưng ở tập thơ này, chị ít khi biểu hiện trực tiếp cung bậc cảm xúc tình yêu mà biểu hiện bằng những ẩn dụ. Chị có những bài thơ hay về tình yêu, gợi những suy tư về sự lựa chọn trong cuộc đời, về hạnh phúc và khổ đau: “Giữa bóng tối và ánh sáng/ Em chọn lối nào cho chúng ta/ Để trái tim không bị tù đày/ Ánh sáng kia làm mắt chói loà/ Không thấy đường đi làm em vấp ngã/ Trong bóng tối, anh dẫn đường, tâm hồn được hồi sinh”. Sống giữa không gian văn hoá Tây Nguyên, tình yêu của thi nhân hoà vào hình ảnh sông suối cuộn chảy, mãnh liệt và nồng cháy như ngọn lửa đại ngàn: “Vũ điệu xoang nóng bừng lên ngọn lửa/ Chạm ánh mắt anh cháy cả đại ngàn/ Tình em mãi là con sông dòng suối/ Chảy về nguồn giữa làng bản mênh mông” (Gió nay lạnh làm run chiều phố núi). Tình yêu là cảm xúc say mê đắm đuối, khát khao hạnh phúc lứa đôi: “Hoàng tử anh nhặt chiếc giày em vội vã đánh rơi/ Ta thành đôi uyên ương bay trong bầu trời hạnh phúc/ Căn nhà chật dội cơn mưa rào đẫm ướt giấc mơ em” (Lọ Lem say giấc mơ miền cổ tích), “Ngày hôn phối của mặt đất và bầu trời/ Anh quyết dụ trái tim em ngược lối/ Giữa biển mơ tràn nụ sóng hôn bờ/ Anh tan vào khoảng khắc đêm mơ/ Em chấp chới sóng ngầm nghe biển hát” (Hôm nay ngày biển động). Tâm hồn thi nhân rạo rực yêu thương và ngập tràn hạnh phúc giữa không gian hoa lá phồn sinh: “Và anh đến như mùa xuân phồn thực/ Tháng Giêng em mơn mởn dậy thì/ Bông cúc tím giấu mình sau vạt cỏ”. Tình yêu không chỉ là hưởng thụ mà còn đầy trăn trở, là trải nghiệm nỗi đau, cô đơn, chờ đợi, thất vọng, tình yêu thanh cao, đẹp đẽ mà cũng đầy luỵ tục: “Mũi tên thấm giọt đau thương tim mình chết yểu/ Anh mải mê hái những vì sao cuối tận chân trời/ Hòn vọng phu em ngàn năm bạc đầu Tô Thị” (Em độc hành hun hút phía không anh). Đôi khi là nỗi buồn của một lần lỗi hẹn: “Mắt phố chiều nay vắng anh buồn hoang hoải/ Công viên hai ghế đá nhìn nhau/ Trống vắng một chỗ ngồi” và những ẩn ức, bất lực khi phát hiện khoảng cách giữa ước vọng và hiện thực cuộc đời: “Ngàn năm anh kiến tạo mặt hồ/ Tình em hoà vào biển lớn/ Hồ anh gợi nhẹ lăn tăn/ Biển em mênh mông bất tận/ Làm sao chứa sóng mặt hồ” (Em đi tìm lời ru trên sóng)…

Cao nguyên hùng vĩ, kỳ bí và hoang sơ với nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đa dạng, độc đáo, là không gian Văn hoá Cồng chiêng, không gian Sử thi và những nghi lễ đầy huyền tích văn hoá gắn với đời sống cộng đồng các dân tộc. Trần Nguyệt Ánh thể hiện ý đồ nghệ thuật: “muốn khám phá bản sắc văn hoá, phong tục của người Tây Nguyên” và cố gắng biểu hiện những nét đặc sắc của đời sống và văn hoá Tây Nguyên. Trong mảng thơ này, Nguyệt Ánh đã thể hiện những tri nhận, suy tư và xúc cảm chân thành về thiên nhiên sông núi, về những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa: “Chiều bên dòng Krông Ana/ Con dựa vào sông Mẹ/ Lắng nghe nước chảy dọc tim mình/ Dòng tình yêu từ lòng Cư Yang Sin bất tận/ Cùng hoà nhập sông Cha/ Krông Ana hiền hoà dáng mẹ!”. Đã đến Tây Nguyên, không thể quên tiếng chiêng huyền bí, ngân nga, là âm thanh của sông núi, của hồn người, nối liền nhân thế với thần linh: “Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên/ Âm thanh cuộn trào từ dòng Sê - rê - pôk/ Bật ra từ những cánh rừng già/ Bung lên từ lòng đất ba – zan/ Tiếng của núi sông hoà vào hồn dân tộc/ Bên nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời”. Thiên nhiên, sông núi, các chất liệu văn hoá luôn gắn với những tâm tư, tình cảm, thân phận của người dân nơi đây, nhất là người phụ nữ Tây Nguyên: “Người đàn bà bên nhà sàn cô đơn/ Mượn trăng núi rừng soi bóng mình cho tỏ/ Mượn choé rượu cần để quá khứ tiêu tan/ Nhịp chiêng xoá nhoà âm thanh ngày cũ đục buồn/ Thắp lửa lòng sưởi ấm cả mùa đông/ Mảnh trăng cô đơn năm tháng ấm nồng vĩnh cửu!”.

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, rừng Tây Nguyên bị tàn phá nặng nề, bị khai thác đến mức tận diệt. Nhà thơ đã thể hiện niềm xót thương trăn trở vì môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thú rừng chim muông mất dần địa bàn cư trú: “Tiếng hươu con thảm thiết bìa rừng/ Ngọn lủa cháy không tìm đâu lối thoát/ Lũ voi rừng gọi bầy rủ nhau chạy trốn”. Những cánh rừng xưa kia làm nên đại ngàn xanh thắm nay chỉ còn là đồi khô núi trọc, những sản phẩm và giá trị văn hoá truyền thống cũng bị mai một dần: “Hỏi rừng về đâu? Thác lũ về đâu?/ Để linh hồn tượng gỗ cũng đớn đau/ Ngàn linh hồn ai oán gửi lời khẩn cầu nhân thế!” (Những linh hồn cô độc lang thang trên bầu trời). Nhà thơ không lên tiếng tố cáo hay kêu gọi mà gợi những lời tự vấn thổn thức, hay thể hiện niềm trắc ẩn, gợi giúp con người ý thức điều chỉnh thái độ, hành vi đối với thiên nhiên: “Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện/ Cong tấm lưng trần cõng cả một trời thu/ Ta là khách lãng du miền đất đỏ/ Khát khao cưỡi voi du ngoạn đại ngàn/ Chợt trong mắt em giọt châu rơi sót lại/ Cho ta nhắc mình dừng bước trước lưng em!”…

Đối với người tha hương, quê hương luôn là chốn yêu thương đi về trong tâm tưởng. Trần Nguyệt Ánh lớn lên ở Tây Nguyên nhưng quê hương Thái Bình với hình ảnh đặc trưng của đồng bằng châu thổ luôn thao thức, vương vấn: “Cánh đồng thảo thơm phảng phất mùi ngọc của trời cuối vụ/ Hương vị tuổi thơ thấm đượm quê nghèo lam lũ” (Đi xa vương vấn làng quê ngấm tận lòng mình). Nhà thơ khát khao được về thăm những danh thắng gắn với lịch sử văn hoá quê hương: “Ước cùng anh một lần về dự lễ hội chùa Keo/ Thăm đền Trần thấm nhuần công lao tổ tiên giữ nước”. Yêu quê hương, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương, nhà thơ hân hoan giới thiệu: “Em tự hào phụ nữ quê mình Năm Tấn/ Lúa thảo thơm một thời nuôi quân đánh đuổi giặc thù/ Anh hẹn đưa em về thăm Đồng Cói, Đồng Châu/ Thăm lễ hội chùa Keo, xem du thuyền, hát chèo, hát hội…”.Trong tập thơ, quê hương gắn với hình ảnh người mẹ vất vả, tảo tần và tận hiến. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật đẹp đẽ: “Mẹ đội cả bầu trời nâng cánh ước mơ con”, “Ánh mắt mẹ sáng bừng trang cổ tích/ Soi cho con thoát kiếp nhọc nhằn/ Bàn tay mẹ chai sần vất vả/ Dắt con qua vùng lam lũ mưu sinh”. Nhà thơ biểu hiện tình cảm biết ơn, yêu thương gần gũi của một người con gái đối với mẹ: “Thời gian vụt trôi mẹ quên đếm tuổi/ Mấy lần trốn trong tóc mẹ chơi trò đuổi bắt/ Mùa trôi ngang qua mắt mẹ những lần thất bát/ Võng mạc lằn sợi vất vả thâm trầm/ Con trưởng thành trên phên liếp bao dung” (Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm). Nhà thơ thấu cảm nỗi vất vả, nhọc nhằn và hy sinh của mẹ bằng sự trải nghiệm của bản thân mình, cũng vất vả, đớn đau vượt qua những thử thách của cuộc đời: “Bốn mươi năm con nếm trải cuộc đời/ Thấu hiểu những buồn vui của người từng trải/ Cũng mang thai hình hài máu mủ/ Để con thấu nỗi nhọc nhằn vất vả hy sinh”…

Về thi pháp nghệ thuật, Vọng núi là kết quả sự thể nghiệm của Nguyệt Ánh với thể thơ 1 - 2 - 3, một thể thơ mới xuất hiện những năm gần đây, có đặc điểm là ngắn gọn, cô đọng, mỗi bài chỉ có sáu câu và câu thơ đầu cũng là tiêu đề của bài thơ (gần giống thơ Hai kư của Nhật Bản nhưng số câu nhiều hơn). Đây là một thử thách đối với người viết vì không dễ gì gói gọn tứ thơ, cảm xúc, ý tưởng, hình tượng trong một dung lượng nhỏ như vậy. Nguyệt Ánh đã có sự táo bạo, nỗ lực và những thành công bước đầu được ghi nhận bằng Giải thưởng cuộc thi thơ 1 - 2 - 3 của Ban tổ chức cuộc thi trên trang Văn học Sài Gòn. Chị đã có những bài thơ hay như: Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên (tr 19), Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm (tr 21), Giữa bóng tối và ánh sáng (67), Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện (tr 71), Mẹ quên tuổi mình trên vòm lá quê hương (tr 128), vv…

Một đặc điểm rõ nét là Nguyệt Ánh dùng với mật độ khá dày phép chuyển nghĩa, lạ hoá  để tạo nên nét mới mẻ, đa nghĩa cho hình tượng thơ. Chị đã dụng công khi sáng tạo những ngôn từ và hình ảnh mới mẻ, táo bạo để tăng sức biểu hiện cho thơ: “Người đàn bà gánh sóng lên phơi”,“Thu vặn mình bật nhánh tình non”, “Mặc cho tình anh mãi vồng lên bất diệt”, “Để xuân trong em chực trào núi lửa”, “Tháng giêng em mơn mởn dậy thì”, “Con cúi nhặt bàn chân cha trong mùa đông cũ/ Ghép kỷ niệm xưa trên phiên nứa nhọc nhằn”, mầm yêu”, “nhánh mây”, “hạt mùa đông”, “nụ sóng”, “ đêm vỡ lòng”, “sợi nắng”, “ngực đất”, vv… Tuy nhiên có những trường hợp liên tưởng quá xa, tạo ra sự tối nghĩa, khó cảm nhận: “Đêm nỗi lòng tự khúc nỗi riêng em”, “Ý nghĩ chúng mình hôm nay dị bản”, “Đích cuối cùng đến mộ địa tình anh”, vv…Thơ 1 - 2 - 3 đòi hỏi sự cô đọng và có sức khái quát cao. Có lẽ vì vậy, nhà thơ đã dùng quá nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc, nhiều ẩn dụ  để xây dựng hình tượng thơ. Điều này làm chất thơ nghiêng về suy tưởng mà nhạt về cảm xúc, hạn chế tính chất cụ thể, sinh động, tươi mới và biến ảo của thi ảnh và thi cảm trong nhiều bài thơ, ví như: “Biển chiều nay định vị trái tim em/ Bước chân khách cô liêu chợt như quen như lạ/ Vô định lòng mình lạc bến nẻo xa/ Biển gọi tên em rộn khúc hoan ca/ Xếp lại nỗi nhớ nơi ngăn tim ngập chìm hoài niệm”. Đây đó vẫn thấy một số bài cảm xúc thơ chưa thật chín, chưa nhập sâu vào bản chất để biểu hiện được cái hồn của chất liệu văn hoá Tây Nguyên. Hẳn nhiên, đây là một việc khó, đòi hỏi những nỗ lực tích luỹ vốn văn hoá lâu dài, bền bỉ và sáng tạo.

Nhìn chung, Vọng núi là tác phẩm thành công của Trần Nguyệt Ánh, thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với thơ và khát vọng vươn lên, khẳng định bản sắc riêng của nhà thơ trong sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm có nội dung phong phú, mang trị nhân văn tốt đẹp và nhiều nét mới mẻ, hấp dẫn về nghệ thuật thể hiện. Đây là một đóng góp ý nghĩa của chị đối với thơ ca Đăk Lăk nói riêng, thơ ca nước nhà nói chung. Rất mong Trần Nguyệt Ánh tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và nỗ lực hơn nữa để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc hơn trong tương lai./.

N.P.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm