TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số

Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-08 23:30:05
mail facebook google pos stwis
265 lượt xem

Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.

Hình ảnh trên bìa sách Lặng yên dưới vực sâu (tác giả Đỗ Bích Thúy, Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn)

 

Họ được ghi nhận bằng những giải thưởng danh giá, uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, Giải thưởng ASEAN, Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng của Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam…

Xét riêng về từng thể loại, văn học dân tộc thiểu số có những bước phát triển không đồng đều tùy từng giai đoạn. Hiện nay, thơ vẫn là thể loại chiếm nhiều ưu thế. Thơ dân tộc thiểu số với lực lượng đông đảo từ Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy Nhân, Bàn Tài Đoàn lớp trước đến những nhà thơ thế hệ sau này và thời kì đương đại như: Mã Thế Vinh, Vương Anh, Triều Ân, Y Phương, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủn, Lâm Quý, Triệu Kim Văn, Ma Trường Nguyên, Mai Liễu, Pờ Sảo Mìn, Lò Cao Nhum, Dương Thuấn... Các tác giả viết trường ca có thể kể đến Vương Trung (Thái) với Sóng Nậm Rốm, rồi Vương Anh (Mường) với Hồn chiêng gánh núi, Inrasara (Chăm) có Tháp nắng (thơ và trường ca Quê hương) đến 2002 thêm Lễ tẩy trần tháng Tư... Dân tộc Tày thành công với những tên tuổi nổi bật: Ma Trường Nguyên (Mát xanh rừng cọ), Y Phương (Chín tháng, Đò trăng), Dương Thuấn (Mười bảy khúc đảo ca), Nông Thị Ngọc Hòa (Nước hồ mãi trong xanh), Nông Thị Tô Hường (Hằn sâu trên đá)…

Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bắt đầu hình thành từ những năm 50 của thế kỉ XX, đến nay đã có một đội ngũ tác giả đông đảo và những thành tựu nhất định. Về tiểu thuyết và truyện ngắn có thể kể đến, dù chưa đầy đủ, những tên tuổi nổi bật: Y Điêng, Vi Hồng, Triều Ân, Kim Nhất, Vương Trung, Ma Trường Nguyên, Hoàng Hữu Sang, Cao Duy Sơn, Hoàng Quảng Uyên, Vi Thị Kim Bình, Hà Thị Cẩm Anh, Hữu Tiến, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Lư… Sau 1986, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển ngày một mạnh mẽ hơn, nhất là sự xuất hiện của tiểu thuyết với số lượng lớn, chất lượng tốt với đội ngũ sáng tác đông đảo các nhà văn người dân tộc thiểu số. Các tiểu thuyết nói chung đều phản ánh đời sống của người miền núi với những phong tục, tập quán, lối sống đầy tình nghĩa, chất phác, mộc mạc và đặc biệt là những khát vọng về cuộc sống hạnh phúc. Từ những năm cuối thế kỉ XX đến thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI xuất hiện những tác giả tiểu thuyết đáng chú ý không chỉ của riêng văn học dân tộc thiểu số mà còn ghi dấu ấn nhất định trong nền văn học Việt Nam. Những thể loại như kí, tản văn của dân tộc thiểu số tuy không phát triển mạnh nhưng cũng có những dấu ấn nhất định với nhiều thế hệ tiếp nối nhau như Mã A Lềnh, Y Điêng, Lý Lan, Hoàng Quảng Uyên rồi đến các cây viết trẻ như Hoàng A Sáng, Hoàng Chiến Thắng, Nông Quang Khiêm, Phùng Hải Yến… Dấu ấn nổi bật nhất về tản văn có thể kể đến Y Phương với Tháng Giêng tháng Giêng một vòng dao quắmKungfu người Co Xàu...

Về lí luận phê bình, trước 1986 có cố nhà thơ Nông Quốc Chấn viết nhiều và được biết đến nhiều trong cả công việc sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình, tập trung nhất là ba công trình phê bình tiểu luận: Đường ta đi (1970), Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977), Chặng đường mới (1985). Giai đoạn sau 1986 ghi nhận những thành công nổi bật của nhà nghiên cứu người Nùng Lâm Tiến với Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đạiVề một mảng văn học dân tộcVăn học và miền núi. Cùng với đó là một đội ngũ những người làm công tác lí luận, phê bình được bổ sung trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI đến nay đã mang đến một diện mạo đầy đặn hơn, cũng nhờ đó mà văn học các dân tộc thiểu số được nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều góc độ tiếp cận hơn.

Những năm đầu thế kỉ XXI, “có sự sàng lọc gay gắt, sự thách thức nghiệt ngã đối với văn học dân tộc thiểu số. Các nhà văn, nhà thơ dân tộc hiểu rõ điều này hơn ai hết. Nên có người do lực bất tòng tâm không sáng tác nữa hoặc sáng tác ít đi mà chuyển sang nghiên cứu, sưu tầm văn hóa, văn học dân gian. Điều này thể hiện rõ nhất ở những nhà văn xuất hiện ở thế hệ đầu tiên, người trẻ nhất trong số những nhà văn này hiện nay là Vương Anh (62 tuổi). Như vậy, sự đổi mới thơ, văn dân tộc thiểu số trong sáu năm đầu thế kỉ XXI là thuộc về lớp nhà văn thứ hai. Số nhà văn này hiện nay là 28 người, trong đó có 17 nhà thơ, 11 nhà văn”(1). Điểm qua hai công trình đã thực hiện là Thơ dân tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI do Mai Liễu, Y Phương, Inrasara, Trịnh Hà biên soạn, giới thiệu 169 tác giả; Văn xuôi dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI do Cao Duy Sơn, Hoàng Tuấn Cư, Mã A Lềnh biên soạn, giới thiệu 63 tác giả có thể thấy được sự phong phú của đội ngũ các thế hệ nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số những năm đầu thế kỉ XXI.

“Một vườn hoa nhiều hương sắc” như cách gọi của cố nhà thơ Nông Quốc Chấn về khu vực văn học này là một cách định danh xác đáng. Tuy thế, sự đa sắc ấy vẫn có những hạn chế dễ dàng được nhận ra như: sự mất cân đối ở vùng miền, mối trăn trở về bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay; cùng với đó là một thế hệ trẻ đứng trước thách thức của công cuộc hội nhập khi ít được tắm mình trong không gian văn hóa truyền thống. Khi mà sự kết nối dù đã có nhưng chưa thực sự rộng khắp và mạng lưới tương tác chưa thực sự lớn mạnh, việc công bố, in ấn còn hẹp, đặc biệt là những sáng tác song ngữ… Đây là những lực cản đáng kể cho khu vực văn học nhiều đặc thù này.

Dù với những thành tựu và lực lượng đông đảo đã có, vào cuối thế kỉ XX, câu chuyện về phát triển đội ngũ và sự kế tục đã được đặt ra với rất nhiều trăn trở. Lưu Xuân Lý với bài viết Đã 53 thu còn đó vấn đề đội ngũ đặt vấn đề: “Vấn đề ở đây là xây dựng và phát triển đội ngũ có phong cách riêng chứ không phải là xây dựng một nền văn nghệ riêng của các dân tộc.” Và ở những năm cuối của thế kỉ trước, sự chênh lệch về vùng miền, sự thưa vắng ở những khu vực văn học như Tây Nguyên đã được bàn đến: “Đúng là vùng đất đầy bản sắc như Tây Nguyên - dọc Trường Sơn, vùng Chăm, vùng Khơ Me đang rất thiếu vắng đội ngũ sáng tạo văn nghệ, đặc biệt là văn học. Cần phải có tác giả các dân tộc Gia Rai, Xê Đăng, Mơ Nông, Kho, Chăm, Khơ Me... Nhưng làm cách nào - vẫn là câu hỏi?” Sau này, những khoảng trắng, sự thưa vắng ấy đã dần dần được khỏa lấp và bồi đắp ngày một nhiều mà một trong những cái nôi ươm mầm, nuôi dưỡng ấy là từ Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Cũng có nét tương đồng với đặc điểm của giai đoạn trước, đội ngũ tác giả trẻ người dân tộc thiểu số hiện nay vẫn còn có sự chưa cân đối trên các vùng miền, số lượng tác phẩm xuất bản nhiều vẫn thuộc về những dân tộc vốn có truyền thống và bề dày thành tựu văn học. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên số lượng những tác giả ghi dấu ấn đậm vẫn còn khá khiêm tốn. Một vài gương mặt rất đáng kì vọng như Y Việt Sa (Bana Rngao) lại không theo đuổi con đường sáng tác chuyên nghiệp. Mặc dù vậy sự xuất hiện của những tác giả dân tộc “hiếm” tác giả văn học như Cao Lan, Xê đăng, M’nông… đem đến những tín hiệu lạc quan. Thêm vào đó, sự kết nối theo từng khu vực dù đã có những đầu tư để đẩy mạnh.

Giai đoạn hiện tại, các trại sáng tác, các cuộc hội thảo tọa đàm, các ấn phẩm công bố và trao đổi sáng tác tuy đã nhóm lên những nhiệt huyết nhưng vẫn cần phải riết róng hơn nữa việc phát hiện và khơi dòng cho những sáng tác trẻ dân tộc thiểu số; đồng thời phát huy vai trò quan trọng trong việc kết nối trao đổi kinh nghiệm sáng tác giữa các tác giả cùng thế hệ và khác thế hệ với nhau. Từ những diễn đàn đó, các cây bút trẻ người dân tộc thiểu số khắp cả nước có cơ hội giao lưu, gặp gỡ và thu nhận kiến thức; ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm và đặc biệt là củng cố những say mê và hứng khởi cho hành trình đi và viết của mình.

Trong thế kỉ XXI, quá trình hội nhập sâu rộng vào văn học thế giới đã tiếp tục mang cho các nhà văn Việt Nam nói chung và cho các tác giả dân tộc thiểu số nói riêng cơ hội tiếp cận sự đa dạng và phong phú của nền văn học thế giới. Có thể kể đến rất nhiều những lợi thế để văn học dân tộc thiểu số sau 1975 phát triển mạnh mẽ, như: sự phong phú và bề thế của văn học dân gian; được tiếp tục với thế hệ trẻ sung sức; ý thức ngày một sâu sắc về tinh thần dân tộc, bản lĩnh và vị thế dân tộc mình… Và một trong những thuận lợi không thể không kể đến đấy là những bước tiến của thời đại kĩ thuật số. Nhà xã hội học F. Lyotard từng dự đoán cách đây hơn nửa thế kỉ trong công trình triết học kinh điển Hoàn cảnh hậu hiện đại. Không bàn đến những vấn đề mang tính triết học của thời đại này, điều cũng rất đáng kể ở đây là việc văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số phải đối diện với cả những khó khăn và nhận được những thuận lợi của thời đại mới.

Ngày nay chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sách mọi nơi trên internet, hay chỉ với một chiếc máy đọc sách điện tử nặng 200gr có thể chứa cả một thư viện tỉnh và bạn đọc có thể đọc được ở mọi nơi mọi chỗ. Thêm vào đó, nhiều đơn vị xuất bản đã chủ động tạo ra cách cuốn sách điện tử và báo điện tử trên các trang web vừa giúp người đọc dễ dàng tìm kiếm, vừa giảm giá thành. Điều đó cho thấy rằng, kỉ nguyên số đã giúp hạ rào cản về không gian, về địa lí, về thách thức tiếp cận sách để mang đến những cơ hội mới cho văn hóa đọc nói chung, cho văn học nói riêng. Với khu vực văn học có nhiều đặc thù riêng biệt này, chúng tôi đề xuất một số hướng đi như sau.

Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới hướng đến hiện đại là đặc điểm tất yếu để văn học dân tộc thiểu số tồn tại trong dòng chảy đời sống văn học đương đại. Một mặt họ vẫn gìn giữ được những đặc điểm truyền thống tiêu biểu, mặt khác họ cần bước vào một ngôi nhà chung; và vì thế đứng trước một yêu cầu, sáng tác của họ đến được với bạn đọc ngoài “không gian bản làng” nhưng vẫn không trở nên xa lạ với chính những chủ thể của không gian ấy. Có thể thấy, mạch nguồn truyền thống vừa là một sợi dây níu giữ, vừa là một hành trang cần thiết trong sự dàn xếp hài hòa để hướng đến hiện đại. Bên cạnh tính hiện đại của lối viết, rất cần sự đột phá của những đề tài được lựa chọn khi những đề tài như giữ nước, dựng nước, truyền thống, bản sắc dường như trở nên quen thuộc. Việc dũng cảm vượt qua “vùng an toàn” này hứa hẹn sẽ mở ra một bầu trời rộng lớn cho văn học khu vực này.

Trong việc đổi mới hướng đến hiện đại, sự thưa vắng đội ngũ những người làm công tác lí luận, phê bình là một trở ngại, bởi đây là lực lượng đồng hành quan trọng với lực lượng những người sáng tác. Đội ngũ làm công tác nghiên cứu, phê bình chuyên sâu về dân tộc thiểu số có thể kể đến các nhà nghiên cứu như Trần Thị Việt Trung, Phạm Quang Trung, Lê Thị Bích Hồng, Nguyễn Đức Hạnh, Cao Thị Hảo… Và trong những công việc cần bỏ tâm sức ấy, giới nghiên cứu phê bình cần thảo luận những vấn đề còn chưa thống nhất, vận dụng thêm những lý thuyết nghiên cứu hiện đại nhằm mở rộng chiều kích của việc tiếp nhận…

Công cuộc phát triển đội ngũ trẻ và tìm kiếm sự khẳng định cũng như đổi mới cho văn học dân tộc thiểu số cần sự đồng hành của các tổ chức, sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Đây là điều kiện cộng hưởng quan trọng. Trung ương Hội cần có sự phối kết hợp mật thiết với các Hội Văn học nghệ thuật địa phương để các hoạt động được tăng cường vừa sâu vừa rộng. Có chính sách đầu tư, khuyến khích những người viết để có thêm những sáng tác hay, đặc sắc về chính quê hương, con người dân tộc mình.

Thứ hai, trong kỉ nguyên số, việc thuận lợi của thông tin mang tính hai mặt, bởi thế, đọc và viết là những công việc cần có sự định hướng. Độc giả tham gia các hoạt động đọc sách, thảo luận trực tuyến để tăng cường tính kết nối, chia sẻ niềm yêu sách nói chung hay với một tác phẩm cụ thể là một xu hướng phổ biến. Từ đó có thể gợi dẫn để nảy ra những ý tưởng như dự án viết sách theo nhóm được tổ chức bởi các nhà xuất bản. Lúc này, nhà xuất bản có thể mua/ bán ý tưởng, đặt hàng viết sách theo những gợi mở đó…

Việc tiếp cận một lượng lớn thông tin trên internet có thể khiến người đọc, đặc biệt là thanh thiếu niên (trong đó có những thanh thiếu niên thuộc các vùng miền núi) gặp khó khăn trong việc phân biệt thông tin chính thống và tiếp cận nhiều thông tin không chính xác. Bạn đọc lúc này dễ bị phân tâm hơn bởi mọi chuyển động thông tin nhanh hơn, bị phân cắt nhiều hơn. Trong khi đó, văn hóa đọc nói chung, thưởng thức tác phẩm văn học nói riêng, cần một sự tập trung đủ lớn về thời gian, về sức lực. Việc đầu tư nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số là một trong những việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là mảng văn học đóng vai trò nền tảng để nuôi dưỡng thật sớm hứng thú đọc cho các độc giả nhỏ tuổi. Kinh nghiệm tổ chức các cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể khác có thể là một gợi ý.

Thứ ba, cần thiết tạo môi trường để thúc đẩy. Bên cạnh các hoạt động khuyến đọc thì việc phát triển các sáng tác song ngữ và bằng tiếng dân tộc giúp độc giả của mỗi dân tộc dễ dàng tiếp cận hơn, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống.

Thời đại kết nối toàn cầu nên việc số hóa các sáng tác không còn là một thách thức. Sau khi số hóa, cần tạo ra những thư viện số mở để bà con dễ dàng tiếp cận. Nếu trước kia, mang những thư viện lên vùng cao là vô cùng tốn kém, và việc lưu trữ sách không hề dễ, cập nhật sách càng khó. Với các tác phẩm được số hóa, chỉ cần một đường truyền đủ tốt và một thư viện số hóa đủ đơn giản, thân thiện, dễ dùng, là bà con dễ dàng tiếp cận. Về điều này, để phát triển văn hóa đọc trong kỉ nguyên số, điểm mấu chốt là phải xây dựng được dữ liệu mở cho người dân, nhưng không thể trông đợi hoàn toàn vào từ nguồn lực nhà nước mà cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân theo tinh thần xã hội hóa.

Với người sáng tác, những chủ nhân có vai trò quan trọng trong sáng tạo và dẫn dắt độc giả, cần có thêm những cơ hội phát triển, rất cần có những điều chỉnh một số hoạt động đã và đang thực hiện như trại viết, tọa đàm, hội nghị, giải thưởng…

Thứ tư, hướng đến cái nhìn liên ngành, liên thể loại. Các ngành gần gũi và dễ có những tương tác với văn học như âm nhạc, phim ảnh là sự lựa chọn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo một đời sống mới cho tác phẩm văn học. Một ví dụ tiêu biểu là bộ phim được chuyển thể của nhà văn Cao Duy Sơn. Vào năm 2012, Đàn trời là bộ phim chính luận, dài tập nhất về đề tài này. Sau đó 5 năm, Lặng yên dưới vực sâu cũng là một bộ phim truyền hình dài tập, đề tài tình cảm, tạo được dấu ấn đáng kể với công chúng xem truyền hình. Việc xem một bộ phim và trở lại tìm đọc một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn có lẽ cũng không phải là một ý tưởng tồi, trong muôn vàn cách tìm những cơ hội phát triển mới cho đời sống văn học. Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, đề tài dân tộc thiểu số vào phim truyện không phải là mới, và kho tàng văn hóa dân tộc đồng bào các dân tộc thiểu số là một nguồn khai thác vô giá cho các nhà làm phim…

50 năm sau ngày thống nhất đất nước là một dấu mốc quan trọng để nhìn lại những thành tựu cũng như đề xuất hướng đi mới cho văn học các dân tộc thiểu số. Và một thực tế không thể phủ nhận là quá trình toàn cầu hóa đã tác động rõ rệt, mạnh mẽ tới mỗi nhà văn; đồng thời kiến tạo một đời sống văn học mới mẻ và khác biệt hoàn toàn. Trước những thách thức và cơ hội đó, việc nỗ lực xây dựng diện mạo, định vị bản sắc là vô cùng cần thiết. Thế hệ trước đã tạo nên những giá trị, những định hình khác biệt cho khu vực văn học này, bởi thế trong thời gian tới, mỗi tác giả trẻ cũng có những trau dồi, tích lũy để vượt khỏi những ràng buộc quen thuộc, những khuôn mẫu đã có để tìm đến những cơ hội phát triển mới, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Theo Đỗ Thị Thu Huyền/Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm