TIN TỨC

Có những dòng sông chảy trong thơ Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-11-20 18:47:59
mail facebook google pos stwis
1346 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG

Nhận từ tay nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, tập thơ mới của chị Đặng Nguyệt Anh, tôi vui mừng và đọc ngay, bởi lẽ lâu nay không gặp chị vì lý do covid, hơn nữa chị đã vượt qua hai lần covid, và tôi cũng một lần, thế mà chị vẫn sáng tác không ngừng nghỉ, đấy là tín hiệu đáng mừng cho thơ, chị đã làm nên điều kỳ vĩ.

Lưu lạc trong tập “Thơ Lẻ” của chị tôi đã ngang qua những dòng sông nhờ con đò thi ca của chị, tôi theo bước chân lãng du của chị mà đi, khi từ ngọn cỏ đến cung trăng, khi từ cuối đất đến chân trời thăm thẳm, khi từ ổ rơm quê nhà đến bưng biền xa xôi, rồi những thị thành rộn rã, dù đi bất cứ nơi đâu chị vẫn luôn đau đáu với dòng sông quê hương “Ta về gối tóc vào sông / Nghe trên đồng bãi / mênh mông quê nhà / Con cò bay lã bay la / Bà ơi thương quá tiếng bà ru xưa” (bài Bà ơi thương quá) hoặc là “Tôi bềnh bồng trôi / Thơ ấu gọi về quá khứ /Bao nhiêu năm sông chẳng đổi dòng / Cứ giữ mãi cái gì rất cũ / Cho con nước lớn ròng / Suôt một đời chung thủy  / Ơi sông” (bài Về với sông), những câu thơ chảy nỗi nhớ mơ hồ từ một dòng sông dần dần đã lộ ra hiện thực, sông nhớ đã được gọi thành tên “Xưa con cháu chúa Thượng Ngàn / Mải mê đeo đuổi cung đàn túi thơ / Đầu trời cuối bể lơ ngơ / Lãng du lạc đến bên bờ sông Ninh / Mẹ cha nhân hậu ân tình / Cưu mang con / Được hóa sinh kiếp này”.

Rồi con sông Ninh đã chảy tuổi thơ chị lớn lên thành biển đời mênh mông, dâu bể, sóng cồn bắt đầu từ tuổi đôi mươi trăng tròn chị đã ba lô lên đường vượt Trường Sơn đến miền biên viễn, cùng với thế hệ chị một thế hệ dấn thân yêu đời, băng qua một hành trình đầy gian khổ hy sinh, khác với cố nhân ta xưa bồng con lên núi chờ chồng bây giờ các chị đã làm nên điểm nhấn của thời đại, chinh phục Trường Sơn mà ra trận tiền, mà sát cánh kề vai cùng nam giới đến kháng chiến thành công. Ở những tập thơ trước, với những câu thơ mang nặng đẻ đau trong rừng miền Đông, chị đã đưa chúng ta ngược về lịch sử mà tri ân sức chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và Đăng Nguyệt Anh nói riêng, khiến phụ nữ thế giới phải ngưỡng mộ, ngả nón xin chào. Càng đi xa chị càng thấy về gần sông Ninh đã chảy, chị vào mộng du mà nhớ “Tưởng về uống nước sông Ninh / Vui sướng quá / Bổng giật mình tỉnh ra / Sông Ninh vẫn tít mù xa / Tôi thương tôi / Kẻ nhớ nhà / Mộng du”. Đã bao lần với sông Ninh mà chị chẳng bao giờ vơi nỗi nhớ. Đúng vậy mỗi một người trong chúng ta ai cũng có một dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ. Không dưng mà nhạc sĩ Đynh Trầm Ca đã viết “Có một dòng sông chảy tràn trong trí nhớ / Nhà em bên lở nhà anh ở bên bồi”, họặc nhà thơ Tế Hanh cũng đã từng: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc / Nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Có lẽ sông Hồng sông Ninh sông Đuống đã làm nên sức bền của Đăng Nguyệt Anh, chân trời góc biển, lãng du thi ca, trống thúc cuộc đời, việc nước việc nhà, vượt qua thăng trầm dâu bể, ngày về trong thanh bình, chị đã hạnh phúc nâng niu một mái ấm gia đình. Gặp bạn quê hương chị lại nhớ về Sông Ninh “Qua ngày giá rét / Sông Ninh cài then / Mùa đông sập cửa / Xuân về chưa em”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh là người có cái duyên giữa trời đất, đi nhiều, đọc nhiều, viết nhiều, sống nhiều nói ít nên nội lực văn chương thâm hậu, giàu những trải nghiệm, thái độ sống nghiêm túc. Những câu thơ đã chảy chiều trên sông Seine Paris, mơ hồ khói sóng, đã đưa chị vào nỗi nhớ nào đây “Thẫn thờ bên bến sông Seine / Tìm đâu bóng dáng thân quen thuở nào / Chiều buồn con sóng lao xao / Và nghe trong gió xạc xào lá phong”. Chị nhớ đấy nhưng nỗi nhớ chưa được gọi thành tên, nhưng chắc chắn trong đó có sông Ninh quê nhà, nhớ quê hương là thuộc tính của con người, một ngàn năm trước Tô Hiệu cũng đã từng “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Có một dòng sông đã chảy trong thơ chị, dòng sông mà nhân loại ước ao nhưng chẳng bao giờ đến được: “Thuyền trăng đậu bến sông Ngân / Sóng sao sóng sánh hay là sóng anh? / Để thuyền trăng phải chòng chành / Xin đừng nổi bão khuynh thành người ơi”. Sông Đông ở tận bên trời Nga mà đã chảy một chuyện tình vào thơ chị: “Ac-xi-nhi-a / Nàng chết rồi / Cái chết đau thương / Cái chết ngậm ngùi /Chiến tranh tội ác lớn nhất loài người / Gri-go-ri ôm xác người tình trong tay / Thảm thiết”. Sông Cầu, Sông Thương đã chảy ca dao, quan họ trong thơ chị: “Quai thao ở cuối sông Cầu / Liền anh phiêu dạt tận đầu sông Tương / Trời làm giăng mắc tơ vương / Bướm ong ríu rít trong vườn trúc mai”  và sau cùng Sông Ninh vẫn chảy mênh mông trong thơ chị “Ngày đi/ Sông hãy còn trinh / Nay về hát khúc huê tình tặng sông/ Tôi đi nam bắc tây đông / Vẫn da diết nhớ / Dòng sông quê nghèo” (bài Sông Ninh ơi).

Những con sông đã làm mềm mại, bền bỉ, lưu chảy ngôn từ trong thơ chị. Ở tập thơ mới này, lục bát của chị đã đạt đến thượng thừa, phát triển trên nền truyền thống, nhất là những cặp luc bát viêt về quê hương, xóm làng. Nếu Nguyễn Bính mang cái tình quê sâu nặng và Anh Thơ với cái cảnh quê quyến luyến thì Đặng Nguyệt Anh đã lồng ghép được cái cảnh quê trong tình quê hiện hữu, chị đã mang cái âm điệu của lục bát vào những câu thơ tự do có sức lay gợi, tôi đi lang thang tìm những dòng sông lại chạm phải một vỉa tầng chữ nghĩa rất riêng của chị: “Tháng năm ơi ở lại phút giây này / Để người về biếc với heo may / Nắng cứ lụa như thời con gái / Tóc cứ mềm và má cứ hây”.

“Người về biếc với heo may”, “Nắng cứ lụa như thời con gái”, những kết hợp từ rất riêng của Đăng Nguyệt Anh rất nhẹ nhàng mà gợi lắm. Chị thường ngắt câu lục bát xuống để làm cho hình thức thơ phong phú, câu thơ mạnh, no tròn những ý, nên câu thơ phương phi, đẹp, chị đang gõ nhịp cho ta đọc thơ, khi thì nhịp đi 2/4, khi thì chậm xuống 3/5, nói chung là lưu chuyển êm ái, xao xuyến. Tôi tâm đắc với lục bát của Đăng Nguyệt Anh và trân trọng muôn đời với lục bát Việt Nam vì đấy là nơi lưu giữ tâm hồn dân tộc. Ngày nay các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đến thăm Việt Nam hay đọc một câu trong Truyện Kiều thì dân ta thấy nhẹ lòng và cảm tình mặc dù người ấy trước đây là kẻ thù của dân tộc. Đăng Nguyệt Anh, người đàn bà làm thơ bằng trái tim nhân hậu, chị đến giữa chúng ta như một sứ giả kết nối thi ca, kết nối tâm hồn, êm ái ta vào một không gian tĩnh lặng, chị làm thơ là do trời sinh ra thế, mệnh trời, không phải nghề mà là nghiệp chung của mọi thi sĩ, không phải là nghề nên chị luôn tĩnh lặng không thường ra phía trước, không cạnh tranh gì với ai, không thể hiện mình, một tấm lòng thi ca thật cảm phục.

Tôi đã rông dài với thơ Đặng Nguyệt Anh nhưng vẫn chưa hết những gì muốn nói, chúc chị mọi sự an lành, giàu sức sáng tạo, vui chị nhé vì thơ, tình yêu, không khí sẽ không có tuổi, rất cần cho con người, chúc thơ chị ngày càng rất Đăng Nguyệt Anh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm