TIN TỨC

Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-04-11 11:21:16
mail facebook google pos stwis
1107 lượt xem

Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.

Có những loại hình văn học nghệ thuật phải đến thời điểm nhất định bạn mới thấy chúng cần thiết.

Ở hoàn cảnh sống bình thường, chắc chẳng ai nghĩ đến việc đọc một vài câu thơ giữa lúc uống thuốc hay lúc bắt xe đi làm. Nhưng có thể viên thuốc ấy gợi ra kỷ niệm về những lần ốm đã qua, thơ có thể là một người bạn đến động viên đúng lúc.

Chế Lan Viên là tạng người mà sự nghĩ ngợi cũng vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, “thơ nói cho ra điều đó” – chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người: “Có vào nỗi đau mới có ích cho người” (Thuốc, 1988).

Tập Chế Lan Viên – Di cảo thơ (*) do vợ của ông, nhà văn Vũ Thị Thường, góp nhặt và tuyển chọn in gộp ba tập Di cảo I, II, III, gồm 508 bài thơ, phần lớn là những bài ngắn. Trước đây chúng đã được in thành các tập riêng, nay cầm trên tay một tập dày dặn, dù đã biết thi nhân vốn là người có sự nghiệp thơ ca đồ sộ, nhưng cảm giác của người đọc vẫn khá choáng ngợp.

Không hẳn vì độ dày (mấy ai dám in dày) mà vì dày đặc những tự sự riêng tư, tràn ngập trăn trở về nhân sinh, về bản thể và về thơ. Chế Lan Viên từng ký tên Chàng Văn, giữ mục nói chuyện nghề nghiệp thơ trên báo Văn Nghệ nhiều năm, in những tiểu luận sắc cạnh cả về vấn đề chính luận lẫn sáng tạo.

Những bài thơ di cảo vẫn nối dài mạch suy tư ấy, nhưng là sự hướng nội, dành cho chính mình.

Chế Lan Viên năm 17 tuổi, khi ra tập Điêu tàn

Thi pháp của cái đau

Đọc di cảo thơ Chế Lan Viên, khác với một giọng sử thi của thời Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa hay Đối thoại mới, ở đây ta gặp nhiều cơn đau. Chế Lan Viên từng phải đi chữa bệnh dài ngày ở Trung Quốc, cuối đời ông cũng bị bệnh.

Lý do thể chất tác động mạnh đến cách tư duy, đến những điều viết ra trong thơ, nhưng ta phải nhớ đây là những bài thơ di cảo, chưa công bố lúc ông còn sống.

Cả một đời thơ Chế Lan Viên giấu khá kín những cơn đau sau những lời thơ đầy khẩu khí thời đại mạnh mẽ như thơ quảng trường. Có lúc cơn đau hiện diện theo kiểu gián cách thời ấy, như “mạch máu ta là những mối đau thương” (Đừng quên lãng, tập Điêu tàn, 1937) hoặc trong một ký ức được ông viết thật nhẹ bẫng: “Năm con đau, mế thức một mùa dài” (Tiếng hát con tàu, tập Ánh sáng và phù sa, 1960).

Giáo sư Hà Minh Đức từng cung cấp một thông tin khá quan trọng về bài hát đã từng được đưa vào sách giáo khoa này, Chế Lan Viên đã viết với nhan đề ban đầu là Con tàu Tây Bắc trong hoàn cảnh đau yếu, không đi đâu được, trong khi phong trào đi thực tế rầm rộ. Cơn đau là một lý do để tác giả bứt rứt: “Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?” và đành an ủi “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”.

Cho đến các bài di cảo, các cơn đau hiện diện, thành một vấn đề thường trực. Có hơn 50 bài có từ khóa “đau” trong văn bản thơ, chưa kể những bài ghi ở thời điểm “mùa bệnh” hay “trước khi mổ”.

Chế Lan Viên có những hình ảnh liên tưởng riêng biệt, từ liên tưởng này bắc cầu liên tưởng khác, qua mấy tầng ngữ nghĩa. Từ nỗi đau tự tri của cá nhân với nỗi đau của con trai ngọc để từ vết thương hóa ngọc, ông nghĩ về một phương diện khác của cái đau.

Trai chỉ tạo ra ngọc một lần rồi chết, nhưng con người “sau viên ngọc sau cùng rồi lại làm viên thứ nhất” (Ngọc sau cùng). Với ông, hạnh phúc lại là hệ quả của nỗi đau nhả ngọc.

Ở chỗ tọa độ sóng và vết thương đã hình thành viên ngọc

Và giọt lệ đau đang ngưng trên má

Hay một giọt máu nào đang muốn hóa thành châu…

(Viên ngọc, 1975)

Thơ những năm tháng hóa ngọc trai và tuột khỏi vòng

Nay anh xâu lại thành thơ

Khi xâu thì chảy máu

(Định nghĩa, 1987)

Chế Lan Viên hay có cách dẫn dắt ý tưởng từ những nghịch dị của tạo hóa để đốn ngộ một sự thể khác, đôi khi có chút hài hước như bài Đối thủ của voi (1988) khi chuỗi liên tưởng như bất tận qua cuộc diễu hành các thành ngữ dân gian: ngọc ngà là mối quan hệ bất cân xứng về phẩm tính của ngà voi với ngọc trai, thứ tinh tế hơn mới đáng giá, rồi sự thể lên voi xuống chó, “mười voi thơ chả cho ta bát xáo thơ nào”, rồi “theo nghiệp nào đành vác ngà”, một mặc cảm bất lực thường trực ở những người sáng tạo.

Những bài thơ trở đi trở lại hình tượng ngọc trai như một tạp văn kỳ khu:

Trời đẹp quá! Không là tôn giáo mà anh chắp tay anh lại,

Nhắm mắt anh cho khỏi chói con ngươi vì sắc đẹp của đời.

Mùa thu ơi! Mùa thu khôn thể với

Cả sắc trời như viên ngọc sắp buông rơi.

(Trời đẹp, 1983)

Từ “Ai đâu trở lại mùa thu trước/ Nhặt lấy cho tôi những lá vàng” thuở Điêu tàn chưa đến đôi mươi và “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc/ Nơi bốn mùa đã hóa thành thu” (Cành phong lan bể) của thập niên 1960, nhà thơ tuổi lục tuần vẫn nguyên vẹn một tâm hồn dễ xúc cảm trước khung cảnh tự nhiên, bên cạnh phần lý tính tràn ngập.

Chế Lan Viên có vẻ như rất dễ liên tưởng, nhưng sự liên tưởng đó liệu có là kết quả của loại thao tác khá “nguy hiểm” của một người tham vọng tìm kiếm thần dược “đau thành ngọc” không? Viết về tuyết, thứ có vẻ nhẹ nhàng mà rồi vẫn có đất cho cơn đau tìm đến, mở ra càng nhẹ thì đóng lại càng đau:

Cái phút đầu tiên tuyết chạm vào đất thế nào?

Như tà áo bay, như hơi thở nhẹ…

Trắng tinh như lòng yêu ngày chưa yêu

Thế nhưng giờ lạnh lẽo như những tình yêu tan rồi, chỉ còn nỗi đau đọng lại

Có tinh thần tham dự vào trong đó, và có tinh thần ư, thì không tan,

Đau mãi đến vô cùng.

(Tuyết (2), 1987)

Những câu thơ về nỗi đau gợi nhớ những bài hát của Trịnh Công Sơn, ngự trị nỗi đau thể xác lẫn tinh thần: “trên hai tay cơn đau dài”, đau dai dẳng trong ký ức: “từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn”, đau sẵn trong hình dung tương lai: “nhỡ mai trong cơn đau vùi”.

Nhưng không dừng ở gọi tên cơn đau “suốt cơn mê này” như Trịnh, Chế Lan Viên như người thăm khám những cơn đau, khiến người đọc chia sẻ cảm xúc khi họ ở vào độ tuổi từng trải hơn.

Thơ di cảo của ông có sự khác biệt với những bộc phát tráng lệ của tuổi hoa niên “điêu tàn”, sừng sững một di sản sống đã qua và đang chảy.

Lời kinh kệ của một nhà thơ

Nhiều tác giả có di cảo, nhưng tập thơ mang đúng cái tên Di cảo của Chế Lan Viên lại có vị trí đặc biệt hơn cả. Hai tập đầu đã xuất bản từ ba chục năm trước và được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1994. Trong đó có những câu, những bài thơ như ông nói, “lộn trái”, đọc một lần như găm mãi vào đầu: “Hay là ta lộn trái/ May có gì mới chăng?” (Lộn trái, 1988).

Tập thơ ra đời là kết quả phi thường của nhà văn Vũ Thị Thường, vợ của nhà thơ Chế Lan Viên, ở độ tuổi 94. Ai đã gặp bà đều ấn tượng về sự minh mẫn và trí nhớ siêu hạng, nhưng hơn thế là một cách làm việc kiên trì để soạn ra được các tập di cảo thơ đồ sộ thế này của chồng mình, từ những trang viết chữ nhiều chỗ rất tháu, với sự giúp sức không nhỏ của con gái là nhà văn Phan Thị Vàng Anh, người là một biên tập viên có nhiều năm kinh nghiệm.

Chế Lan Viên thuộc về một thế hệ văn học mà sự nghiệp gắn với sự phát triển của một xã hội Việt Nam hiện đại hóa về tư duy và ngôn ngữ, nhưng thường bị các dòng chảy thời cuộc cuốn theo những chức năng xã hội.

Chế Lan Viên cùng nhiều bạn thơ đã thành đồng chí trong hệ tư tưởng, thành những phát ngôn viên cho những cuộc chiến đấu, thành người cổ động không biết mệt mỏi cho ước vọng kiến tạo một xã hội tương lai.

Chính những chức năng này nhiều khi tạo nên diện mạo của các tác giả – có lúc ở góc độ khuôn mẫu, kể cả khuôn mẫu về bi kịch, về nỗi đau, mà thực sự như thế chúng ta làm tan loãng họ. Những đau đớn của đời người liệu có phải đau đớn mang tính thế hệ không? Có người mãi mãi đắm chìm trong bể khổ đó, có người đã tìm cách vượt qua.

Khoảng năm 1988: hai vợ chồng một người thân đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên (áo đen) và nhà văn Vũ Thị Thường (áo hoa) tại nhà riêng. Lúc này Chế Lan Viên đã phát hiện bị bệnh nặng..

Thơ di cảo Chế Lan Viên viết bằng một giọng thơ hiển ngôn nhưng có nhiều lớp lang thủ pháp như đánh cờ. Ở độ tuổi trẻ hơn, tôi từng đọc những bài thơ đã phổ biến của ông với cảm giác xót xa, giờ đọc lại mới nghĩ đấy thực ra là những bài kinh kệ của thi sĩ trong cuộc đời để đi qua những bến sóng.

Vang lên trong những câu thơ thể tự do là lời tự tình tựa những phương cách vượt qua bể khổ. Khổ vì cao vọng mãi không đạt tới, khổ vì hiểu sai, khổ vì quỹ thời gian sắp cạn, khổ vì ký ức hành hạ…

 

Chế Lan Viên cuối cùng vẫn là người nhẫn nại cẩn những xà cừ, đính những viên ngọc hiếm lên chiếc hộp thơ của mình, kể cả trong “những ngày trống không nhờ nhờ trắng mây”, ông tự khuyên mình rằng luôn có những vẻ đẹp nằm ở thời khắc đã vuột qua:

Một chút nắng như con sóc đầu cây rồi khuất

Một điệu hát mơ hồ nghe thoáng đâu đây

Hãy cầm lên, bắt lấy

Có vàng lẫn trong dòng thác ấy.

(Ngày trống không, 1986)

Những lời tự răn cũng nhất quán với những lời ông gửi lại cho các con: “Tặng cho ba con gái, nhưng riêng tặng Vàng Anh là đứa làm thơ”.

Chế Lan Viên có khắc nghiệt quá với người và với chính mình không? Nhưng những bài thơ lẫn trong sổ tay đầy những lời dằn vặt, đau xót, ân hận đó có đến địa chỉ nào đâu, mà biết đâu đó là những toa thuốc một bác sĩ đang tự kê cho mình.

Trong những bài thơ cuối đời, ông dành đến hai bài thơ lấy tên Từ thế chi ca, như những lời trăn trối làm lành với chính mình:

Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ

Trong hạt sương, trong đá…

Trong những gì không phải anh.

Anh tồn tại mãi

Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi,

Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên

(Từ thế chi ca 2, 1988)

Phải nói rằng đọc cả tập Di cảo thơ này cần nhiều thời gian, mỗi ngày chỉ đọc một đôi bài và ta gấp lại, nghĩ ngợi, để cho những câu chữ vang lên nghĩa kinh kệ của chúng.

Tựa như ta được sống thêm một cuộc sống khác, không chỉ của người làm thơ mà còn của một số phận đã được thơ hóa, một loại thơ dạng nhật ký riêng tư.

Đọc chúng, ta có lẽ sẽ được giàu có hơn một chút về vốn sống, về trải nghiệm, và có thêm rất nhiều phương cách hòa giải với cuộc đời bất trắc này.

NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ/ TTCTO

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm