TIN TỨC

Hành trình trở về trong chùm thơ Phạm Thanh Bình

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-01-16 23:54:31
mail facebook google pos stwis
1979 lượt xem

Những ngày cuối năm, khi mùi Tết đã phảng phất đâu đó, tôi bỗng nhận được chùm lục bát của nhà thơ Phạm Thanh Bình ở thành phố Hồ Chí Minh gửi tặng. Thật lạ, giữa thành phố ồn ào náo nhiệt vậy mà từng câu thơ lục bát vẫn trong trẻo chân quê. Bao hình ảnh về cảnh quê, Tết quê dường như cứ thao thiết chảy trong dòng cảm xúc thương nhớ của nhà thơ. Tôi cũng là người xa xứ cùng thế hệ với tác giả nên đọc thơ mà cảm thấy lòng mình cứ nao nao nỗi nhớ cố hương.

Nhà thơ Phạm Thanh Bình

Chỉ là chùm thơ lục bát nhưng chứa đủ cảm xúc thăng trầm của một cuộc hành trình từ trong tâm tưởng đến bước chân ngoài đời. Có ngày ra đi, có lần mò chìm nổi, có tìm lại chính mình và có cả trở về khi đã dạn dày sương gió.

 

Ngày ra đi…

Mọi cuộc ra đi để mà trở về thì cái sự ra đi đó sẽ nhẹ nhàng, người ra đi sẽ vững bước. Đối với nhà thơ Phạm Thanh Bình, hành trình ra đi “tha phương cầu thực” không hẹn ngày về nên rất day dứt, buồn tủi:

Cắm đầu... 

                 con bước hụt hơi 

Không dám ngoảnh lại...

                                            nhìn nơi sân nhà.

 (Cúi đầu)

Câu thơ bị ngắt quãng bởi cái cảm giác nặng nề, ngập ngừng ái ngại khi phải rời bỏ quê hương. Một cuộc ra đi bất đắc dĩ. Ra đi mà như trốn chạy khỏi bao tình cảm gia đình nên phải “Cắm đầu… con bước hụt hơi”. Nỗi lòng tác giả cứ giằng xé “không dám ngoảnh lại”, không dám từ biệt. Nhà thơ sợ bị mềm lòng không dứt ra được. Thật là cám cảnh thê lương!

 

Lạc giữa cõi đời…

Rời xa quê hương, trốn chạy lòng mình để tìm đến những miền đất hứa. Chấp nhận gian truân vất vả xứ người cũng chỉ vì cái kiếp mưu sinh. Để rồi đến lúc nhà thơ chợt nhận ra mình đang bị trôi lạc giữa dòng đời:

Tôi là ai?...

                giữa phố say

Tiền tài, danh vọng... 

                                     trả vay cuộc người. 

                                                      (Tôi là ai?)

Vết thương trên câu thơ lục bát cứ vật vờ như bước chân phiêu dạt. Nhân vật trữ tình càng đi xa càng chơi vơi lạc lõng. “Tôi là ai” giữa nơi đất khách quê người? Cái mơ ước nhỏ bé mà nhà thơ phải rứt ruột đi tìm ngày càng mất hút giữa “phố say”, giữa “tiền tài danh vọng”. Tất cả chỉ là “trả vay cuộc người”. Hai tiếng “cuộc người” nghe sao mà ngao ngán đến tận cùng của đời phiêu bạt. Sự trải đời và chứng kiến bao hỉ nộ ái ố giữa chốn trần gian đã được nhà thơ gom lại trong hai tiếng “cuộc người” trần trụi.

Từ sự lạc lõng bơ vơ đã đánh thức bản ngã:

Lạ chưa?...

                vui khóc, buồn cười 

Xênh xang áo nón...

                                  vẫn người đâu đâu.

                                                  (Tôi là ai?)

Những câu thơ trải lòng khi “đi tìm lại chính mình” giữa bao chuyện “vui khóc, buồn cười” lạ đời nơi đô thị. Cũng từ cuộc mưu sinh vất vả mà nhà thơ nhận ra mình không thể hoà nhập, “vẫn người đâu đâu” giữa chốn phồn hoa. Cái “người đâu đâu” đó chính cái bản ngã đáng trân quý còn sót lại.

Có lẽ tác giả cũng không ngờ cuộc ra đi để tìm cơm áo lại có lúc như bị lạc lối giữa chốn phù hoa. Và rồi từ tiếng gọi sâu thẳm khắc khoải trong cõi lòng, buộc nhà thơ lại phải tiếp tục hành trình đi tìm chính mình:

Tôi là ai?...

               thật bẽ bàng

Xế chiều sấp bóng

                                ...ngồi ôm

                                              ....bóng mình!

 (Tôi là ai?)

Câu thơ tiếp tục bẻ đôi, bẻ ba gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước đời vấp ngã trong “cuộc người”. Trên hành trình tìm lại chính mình, nhà thơ đã nhận ra những sự thật “bẽ bàng”. Tác giả thật tinh tế khi sử dụng những thủ thuật ngắt câu, cài đặt dấu câu, kí tự “phi âm thanh” giúp người đọc cảm nhận đầy đủ hơn nỗi lòng trắc ẩn và sự vật vã trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Một nỗi cô đơn được đẩy đến tận cùng của cô đơn. Quả thực, đối với thơ của Phạm Thanh Bình thì độc giả tự đọc sẽ thú vị hơn nhiều khi nghe qua người khác đọc.

 

Định dạng lại mình…

Nhà thơ xót xa, bẽ bàng không phải để mà than thở buông xuôi. Từ trong nỗi tận cùng cô đơn lạc lõng, tác giả đã “định dạng lại chính mình”:

Xa quê 

             quá nửa 

                             đời người...

Phù hoa...

                không át

                                 nổi mùi

                                               rạ, rơm

Chiều nay

                   vấp gánh

                                     hàng rong

Nao nao  

                lòng lại...

                              chạnh lòng 

                                                ...nhớ quê.

 (Người nhà quê!)

Câu thơ lục bát cứ lặng rơi như lời bộc bạch. Nửa đời người ngụp lặn giữa chốn phù hoa, tưởng như mình đã là dân phố thị. Ấy vậy mà khi “vấp gánh hàng rong” thì cái nếp chân quê, cái “mùi rạ rơm” bỗng bùng lên làm cho nhà thơ ngẩn ngơ nao nao chạnh lòng. Từ “vấp” làm vỡ ra sự bất ngờ. Vấp là vì tưởng như đã quên. Hoá ra, tất cả những gì của quê hương bản quán vẫn còn nguyên vẹn trong nỗi nhớ của nhà thơ Phạm Thanh Bình. 

Thói đời, không ít người li hương thường muốn chối bỏ quê nghèo. Nhà thơ Phạm Thanh Bình thì ngược lại. Không chối bỏ lãng quên mà càng nhớ càng tự hào về quê nhà:

Thị thành 

                  nuôi xác...

                                   tốt, tươi 

Dặn lòng

                 hạt giống

                                   là người...

                                                   nhà quê! 

 (Người nhà quê!)

Câu thơ lục bát được chia thành hai nửa: phần xác và phần hồn. Phần xác “tốt tươi” là nhờ vào cơm áo của chốn thị thành; phần hồn là “hạt giống” của quê hương nơi chôn rau cắt rốn. Hai tiếng “nhà quê” thốt lên nghe thật hãnh diện thân thương. Phải là người yêu quê hương bản quán thật sâu đậm mới thốt lên được những câu thơ mộc mạc mà day dứt đến thế.

Trở về…

Nỗi nhớ thương quê hương nguồn cội đã kéo nhà thơ trở về từ trong tâm tưởng:

Về nơi mẹ đẻ, cha sinh

Làm sao gột hết trên mình...

                                                   vết hoang?

(Tôi là ai?)

“Vết hoang” trong hồn thơ của Phạm Thanh Bình chính nét đẹp chân quê. Người quê vốn mộc mạc như ngọn lúa, cục đất, củ khoai. Họ sống chân chất giữa hương đồng gió nội và dường như chưa bị pha tạp bởi thói thị thành. Cái “vết hoang” là bản sắc, là hành trang, là sức đề kháng và cũng là sợi dây níu giữ những đứa con xa quê.

Đọc thơ lục bát của nhà thơ Phạm Thanh Bình, người đọc như gặp lại âm hưởng lời ru trong ca dao. Lời ru và dòng sữa mẹ đã nuôi những đứa con khôn lớn. Khi bước chân nhà thơ đã rời xa cha mẹ, quê hương nhưng lòng dạ thì vẫn như còn ở lại với lời ru của mẹ:

Ru hời...ru hỡi... ru hà...

Sao tròn chữ hiếu... 

                                  khi mà... xa quê?! 

(Cúi đầu)

Tấm lòng hiếu nghĩa của phận làm con cứ đau đáu trong tim. Có lúc nhà thơ như giật mình thảng thốt:

Kẻo mai cha mẹ đi rồi

Dầm mình cõng cả một trời bão dông.

(Về đi con!)

Đạo lí và tình yêu đó như cái bến quê neo đậu tâm hồn. Nó có sức cuốn hút nhà thơ trở về với kí ức, trở về với người thân, trở về với bờ tre gốc rạ. Hình ảnh hiện lên như thước phim quay chậm từ xa đến gần:

Vẫn bến xưa, vẫn con đò

Triền sông vẫn nắng...

                                       vàng hoa cải vàng.

(Tôi là ai?)

Nhờ có tình yêu quê hương mãi trung trinh vẹn tròn nên nhà thơ mới cảm nhận được cảnh vật bến nước con đò vẫn như xưa. Và không gian vẫn bừng sáng bởi mùa hoa cải ven sông vàng rực trong nắng.

Và nhà thơ đã trở về với mái nhà quen thuộc, nơi lưu giữ biết bao hoài niệm thân thương:

Bên hiên nhà ngói ba gian

Mẹ ngồi gói bánh dưới giàn mướp hương 

Bánh gai, bánh mật, bánh chưng 

Mẹ ướp vào bánh cả hương đất, trời.

(Tết xưa thương nhớ!)

Thật thú vị được gặp lại những cái bánh quen thuộc gắn liền với kí ức của tuổi thơ và chứa đựng những giá trị văn hoá, cùng với hương quê thật là lãng mạn: Mẹ ướp vào bánh cả hương đất, trời!

Đến đây người đọc càng đồng cảm với nhà thơ về hồn quê, hương quê đã “ướp” vào trong những cái “bánh gai, bánh mật, bánh chưng”. Vì thế mà những cái bánh quê không thể thiếu được trong dịp Tết đến Xuân về.

 

Chùm thơ đã vẽ lại hành trình quá nửa đời xa quê của nhà thơ Phạm Thanh Bình. Một hành trình có cất bước ra đi; có lưu lạc giữa cõi đời; có tìm lại chính mình và cuối cùng là cuộc trở về như một định mệnh kiêu hãnh:

Đi từ ruộng lúa, bờ đê 

Giàu, nghèo cũng có một quê... để về!

(Tết xưa thương nhớ!)

Câu thơ không còn phải “cúi đầu” nặng bước, không còn phải “cắm đầu” trốn chạy mảnh sân nhà và những giọt nước mắt của mẹ. Mỗi trang thơ là một trang đời. Người đọc đã nhận ra từ cuộc hảnh trình một Phạm Thanh Bình tài hoa mà ấm áp nghĩa tình chân quê.

                                                                01/2025

Trần Vinh

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm