- Lý luận - Phê bình
- Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Đỗ Nguyên Thương
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái "tít" chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên – Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Cần Thơ.
Nhan đề phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng của văn bản, của tác phẩm; phải nói cô đọng được nội dung cốt lõi của tác phẩm. Do đó, nhan đề giữ vị trí quan trọng đối với không chỉ người sáng tác mà đối với cả người tiếp nhận. Đặt được nhan đề cho tác phẩm rất quan trọng, quan trọng như đặt tên cho đứa con của mình vậy! Và hôm nay được anh - Nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ tặng sách, tôi đã thật ngỡ ngàng trước nhan đề của tập thơ Hãy sống như những người đã chết.
Đây chính lả một nhan đề dụng công. Rất có thể khi cầm bút viết tên cho tập thơ của mình anh đã thật nhẹ nhàng chứ không nhọc công nhưng tôi chắc chắn anh đã từng dụng công trong tiềm thức!
Văn học nghệ thuật có một hiện tượng lạ là có khi người ta viết bằng tiềm thức. Phê bình cũng không ngoại lệ. Chẳng phải thế sao? Nhà thơ Hoàng Cầm nói “Bài thơ Lá diêu bông tôi viết về một câu chuyện có thật, câu chuyện về mối tình đầu tiên trong đời tôi. Vào một đêm năm 1959, khoảng 3 giờ sáng, tôi chợt tỉnh giấc rồi thao thức không ngủ lại được. Căn nhà ở phố Lý Quốc Sư nằm sâu phía trong, lại thêm thuở ấy ban đêm không có tiếng xe tiếng còi ầm ĩ như bây giờ, nên đêm khuya càng thêm thanh vắng. Chợt tôi thấy lóe trong đầu văng vẳng mấy câu thơ do một người đàn bà đọc bằng giọng lanh lảnh: Váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng...
Tôi lấy ngay cây bút chì và tập giấy luôn để sẵn trên đầu giường ghi lại. (Nguồn Internet - Báo Bình Dương).
Theo Tuy Hòa, báo Nông nghiệp và Môi trường, nhà thơ Hoàng Cầm kể: “Một đêm, tôi ở phố Lý Quốc Sư - Hà Nội, có lẽ quá nửa khuya rồi, tôi trằn trọc nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh… Trong cái đêm bồn chồn ấy, tôi chợt nghe tiếng văng vẳng bên tai như có ai nói, giọng phụ nữ, không phải giọng chị Vinh, không phải xa xôi lắm như tự kiếp nào chứ không phải của kiếp này….” Và nhà thơ chỉ việc chép lại. Đó là hoàn cảnh ra đời của bài thơ nổi tiếng Lá diêu bông.
Trường hợp Nguyễn Vinh Tiến, thiết nghĩ, anh sáng tác bài hát Bà tôi do tiềm thức còn Ông tôi là do ý thức! Có thể anh yêu ông bà như nhau nhưng Bà tôi là ca khúc được đông đảo công chúng hào hứng đón nhận hơn Ông tôi. Viết bằng tiềm thức là kết quả của sự thôi thúc mãnh liệt từ bên trong! còn được gọi những cái tên khác như “viết như lên đồng” hoặc “như ma ám”... Khi đó người viết (văn, thơ, nhạc, hoạ…) không phải suy nghĩ nhiều vẫn có tác phẩm hay. Có thể hiểu cách khác là người viết đã dụng tâm, chủ ý từ lâu và điều đó được tích luỹ ngầm, dần dần tràn đầy trong tâm trí; khi đã đủ độ chín thì không cần dụng công, tác phẩm sẽ ra đời rất nhanh. Với nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên, cách đặt nhan đề kia cũng vậy!
Có một hiện tượng là ngày nay không ít bài báo giật tít câu like nên đã đặt tên cho bài của mình thật “giật gân” và cũng nhiều khi cách đó đưa người đọc đến sự thất vọng sau khi đọc tác phẩm. Với Nguyễn Trung Nguyên thì không! nhan đề gây chú ý, gây sự tò mò là lẽ đương nhiên, nhưng, nó không đưa cho người đọc một cảm giác câu like giật tít mà lại khiến người đọc tò mò khám phá
Hành trình cuộc đời mỗi người không ai chệch ra khỏi quy luật sinh - lão - bệnh - tử, vậy nên khi dân số trên trái đất tăng lên đồng nghĩa với người chết cũng tăng lên. Và tất nhiên có những cái chết do quy luật và có những cái chết do chủ động (hiện tượng nhà văn Quỳnh Dao - Trung Quốc, gần đây).
Vậy ở đây Nguyễn Trung Nguyên nói đến cái chết nào? Tìm hiểu một bài thơ được lấy nhan đề làm tên chung cho cả tập, để hiểu phần nào triết lý, suy tư, suy cảm, cảm nghiệm của thi sỹ.
Tôi sinh ra vào những ngày tháng tư lịch sử/Các anh nằm xuống đã lâu/Năm mươi năm đất nước mình thay đổi/ Tôi sinh ra vào những ngày tháng tư lịch sử/Cha bảo “Con đến tuổi lập thân!”
Khổ thơ đầu tựa như lời dẫn truyện, nhẹ nhàng, tự nhiên và rất đỗi chân thành. Tháng tư lịch sử được nhắc đến như nhắc về kỷ niệm thân thiết, thiêng liêng. Có lời người cha thủ thỉ, có sự tiếp nối dòng lịch sử, dòng đời. Và cũng rất nhẹ nhàng là lời kể
Chúng tôi lớn lên đã hết chiến tranh/Chẳng biết “lễ truy điệu” trước giờ ra trận/Không thể hình dung “củ mài- lá bép”/Một bữa ăn sáng bây giờ cũng cân nhắc “dở - ngon”.
Sinh ra trong thời bình và thụ hưởng cuộc sống hòa bình, mấy ai hiểu sự gian khó, hy sinh của một thời cha ông “củ mài- lá bép” thay cơm; không hiểu được trước mỗi giờ ra trận cha anh mình lại làm lễ truy điệu cho đồng đội. Bỗng dưng tôi nhớ tới hình ảnh rừng xà nu trong trang văn Nguyên Ngọc, cây xà nu lớn bị thương, bầm máu và cây xà nu dính đạn ngã xuống bên cạnh những cây xà nu con mọc lên, vươn mình khỏe khắn dưới ánh nắng mặt trời.
Và đọc thơ Nguyên Trung Nguyên, tôi cũng nhớ về một thời đi học, đọc say sưa thơ Tố Hữu. Nếu như xưa kia Tố Hữu từng viết “Đường ta rộng thênh thang tám thước”, hạnh phúc thời điểm đó như vậy, con đường tám thước là rộng. Ngày nay Năm mươi năm rồi đường cao tốc thênh thang/ Hà Nội - Cà Mau chỉ là chuyện nhỏ. Câu thơ của Nguyễn Trung Nguyên nói trực diện về sự tiến triển vượt bậc của hạ tầng cơ sở, của đất nước 50 năm sau chiến tranh. Nếu là người bình thường, chắc chỉ nhận thấy ít thôi, thậm chí không nhận thấy sự tiến bộ vượt bậc về đời sống kia đã được đánh đổi, được trả giá bằng bao nhiêu xương máu của các anh hùng, liệt sỹ. Từng trải và suy nghĩ sâu sắc với cuộc đời, thi sỹ Trung Nguyên cảm nhận Một cung đường thôi - có người đi mãi không về. Và vẫn trong dòng hoài niệm, nhớ nhung đồng đội, biết ơn các anh hùng, liệt sỹ, nhà thơ viết những dòng thơ như chắt ra từ cõi lòng đau khôn tả khi có những người hồn nhiên ra trận không về, có người nằm xuống cho thế hệ sau sung túc trong tiện nghi ngập lối. Có nghười được bảng vàng ghi danh rõ tên, rõ tuổi, có nhiều người Thân xác hóa vào hồn thiêng sông núi. Nhiều người “hồn nhiên” ra đi, nhưng nỗi đau còn vương vấn mãi trong lòng người thân, có những bà mẹ Nhiều đêm mẹ giật mình ngồi dậy/Quờ tay tìm “mộ con đâu?!. Đọc thơ Nguyễn Trung Nguyên, thấy một trường hoài niệm; đọc thơ Nguyễn Trung Nguyên thấy sự so sánh cặp đôi được sử dụng với mật độ khá dày khi nói về “chúng tôi” - những người đang sống, đang hưởng thụ vật chất, tiện nghi thời bình với “các anh” sống giản đơn quá đỗi, Chỉ hương bưởi thơm vấn vít tim mình... Và nữa, khi chúng tôi “nhấp chuột” là thấy mặt người yêu dù xa nhau cả ngàn cây số, còn các anh vĩnh viễn để lại thanh xuân trên chiến trường. Thật sự ám ảnh những câu thơ như
Các anh hồn nhiên ra trận không về/Chúng tôi bước vào tương lai lạc quan rộng mở
Và sâu đằm một cõi tri ân Các anh nằm xuống cho chúng tôi đứng thẳng/Mặt trời trên đầu, bóng bia mộ nghiêng nghiêng. Mặt trời là nhân chứng, mặt trời chứng ngộ cả đau khổ và hạnh phúc. Mặt trời tồn tại vĩnh viễn, các anh nằm lại chiến trường. Mặt trời bất tử và các anh cũng hóa vào hồn thiêng sông núi. Chiều sâu của thơ Nguyễn Trung Nguyên không chỉ tồn tại trong câu chữ, còn tồn tại trong những ẩn dụ, so sánh ví von và liên tưởng đa chiều.
Không phải ai cũng nhận thức được sâu sắc như nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên rằng “Hạnh phúc ngọt ngào/Thiêng liêng lắm nỗi đau”. Nhà thơ nói bằng trải nghiệm và suy cảm, nói bằng lương tri và sự biết ơn sâu sắc đối với các anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống cho Tổ quốc thiêng liêng mãi mãi trường tồn.
Đọc xong bài thơ chúng ta hiểu Nguyễn Trung Nguyên nói đến cái chết của những anh hùng liệt sỹ - sự ra đi của họ làm vẻ vang sông núi này. Bất luận họ đã ra đi như thế nào nhưng chỉ riêng việc họ xuất hiện ở chiến trường, cầm súng chiến đấu là hành động đẹp, hành động cao cả, không chỉ vì cái tôi, không ích kỷ, không tính toán nhỏ nhen. Và tất nhiên Hãy sống như những người đã chết còn bao hàm nghĩa ở thế giới đó không còn sự bon chen, chỉ có sự đoàn kết và ấm áp yêu thương…
Hãy sống như những người đã chết là bài thơ gọn gàng hàm chứa một thông điệp giàu giá trị nhân văn, thấm đượm triết lý và ý vị nhân sinh sâu sắc của phương Đông khiến mỗi chúng ta sau khi đọc xong đều cảm nhận được một cách hết sức nhẹ nhàng và thấm thía về thông điệp cảnh tỉnh và tri ân, để từ đó điều chỉnh lối sống của mình, trân trọng hơn từng phút giây của cuộc sống và biết ơn sâu sắc hơn đối với thế hệ cha ông đã ngã xuống cho chúng ta được đứng thẳng hôm nay.
Việt Trì, ngày 22/7/2025
Đ.N.T