TIN TỨC

Khóc, cười trong thơ Nguyễn Ngọc Thu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-17 00:07:54
mail facebook google pos stwis
1663 lượt xem

Xuân Trường

 Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Thu.

1. Tất cả nhân loại khi sinh ra đã chào đời bằng tiếng khóc, tiếng khóc bắt đầu cho tương lai, một hành trình có bình yên, có thăng trầm dâu bể, có hạnh phúc, có khổ đau cứ thế mà xê dịch, mà lay động cuộc đời chúng ta cho đến những ngày cuối cùng trước khi vắng mặt vĩnh viễn trên mặt đất này: “Khi có dịp chụp hình/ Người ta thường thích cười/ Bởi đời một con người/ Cười không nhiều bằng khóc (trong bài Cười-khóc).

Nước mắt của con người chảy vào thiên tai địch họa, chảy vào chiến tranh, chảy vào những nỗi đau rình rập bất ngờ, cũng có thể do chính con người tự gây ra, từ khi có nhân loại nước mắt có thể tụ thành biển lớn và nụ cười thì cũng đầy ắp cả không gian, cũng có khi cười lại ra nước mắt và người ta đã ví nụ cười là cái khóc khô không lệ. Đời người được bắt đầu bằng tuổi thơ qua thành niên đến trưởng thành, yêu đương , lập gia đình rồi mải mê với hành trình cơm áo. Nhưng Nguyễn Ngọc Thu thì không phải vậy. Anh cùng với thế hệ của mình sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta đang có quân thù dày xéo, anh đã xếp bút nghiên , đáp lời sông núi vào cuộc trường chinh vệ quốc, bỏ lại sau lưng những ước mơ, những mộng tưởng, những người thân và môi chưa chạm phải lời yêu, chưa nghĩ đến ngày về bâng khuâng trong anh “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh đã tự giới thiệu mình “Ta về Thanh Miện quê hương / “Chôn nhau cắt rốn” lớn khôn thành người / Mênh mông biển lúa mây trời / “ đất lành chim đậu” ngàn đời ông cha…” (Ta về). Và đây nữa “… Bến phà xưa không còn / Cầu Mỹ lợi bắc ngang / Con lại về bên  ấy / Bao nghĩa tình nặng mang” (Quê nội).

Có lẽ trời Nam đất Bắc đã làm cho không gian thơ Nguyễn Ngọc Thu lung linh, huyền ảo, luôn hiện ra muôn cảnh, muôn màu, yên lặng mà dữ dội, từ trong sâu lắng mà bật ra những âm thanh xé lòng, mỗi lúc càng mở rộng biên độ cảm xúc làm cho ta rung lên khi lạc vào không gian thơ Nguyên Ngọc Thu. Anh là nhà thơ của lính nên tính ngăn nắp, gọn gàn, nguyên tắc, trung thành, chịu đựng, và cái thi vị của người chiến binh vệ quốc đánh giặc bảo vệ độc lập quê hương, tất cả đã làm nên chất liệu cho thơ anh bềnh vững nhưng không thiếu những ảo điệu mong manh, nhẹ nhàng, xao xuyến lòng người: “Đời người ngắn lắm ai ơi / Khôn ra thì đã… gần nơi… cõi về” (Hoài niệm) nhẹ nhàng mà triết lý nhân sinh lắm, “Ngắt hoa sau vườn nhà / Thắp nhang bàn thờ em / Những bông trang đỏ thắm / Còn đọng giọt sương đêm / Nhiều người còn muốn ngắm / Cũng đành giành thương em” (Sớm mai) mong manh mà nước mắt lắm Nguyễn Ngọc Thu ơi.


Tập thơ “Phía mặt trời” của Nguyễn Ngọc Thu

Hoàn cảnh tác giả luôn luôn lắng đọng vào trong thơ như người phương Tây đã nói “le style c est l home”, văn chương chở đạo đời. Nguyễn Ngọc Thu thuộc mẫu người nội tâm, anh yên lặng viết, yên lăng nghe và yên lặng tìm kiếm phát hiện, miệt mài như những cánh ong hút mật chữ nghĩa mà thành cái nghiệp văn chương . Mới gặp tưởng anh là người kiêu bạc nhưng khi đã kết nối thì tôi đã đếm được nỗi buồn anh, có lúc anh lại vô vi, do vây các từ “trời phật” hay xuất hiện tong thơ anh. Anh như một bông hoa súng tím mộng mơ, bên một góc trời, không làm rạo rực cỏ cây như hoa sen, nhưng sẽ xao động lòng ai đã ngang qua đấy và dừng lại khi nghe “… Dạ thưa nước mắt xuôi dòng / Con ru cháu tiếp mênh mông biển dời / Đồng lòng là kiếp con người / Lời ru muôn thuở… ru nuôi tâm hồn”. Những nụ cười trai tráng của Nguyễn Ngọc Thu, đã tạc vào Trường Sơn thành ký ức tươi xanh thời kháng chiến, anh đã dấn thân yêu đời và tự hào. Những tiếng khóc của Nguyễn Ngọc Thu đêm đêm cho đồng đội nằm lại chiến trường, cho người vợ hiền quá cố từ độ thanh xuân, cho những giả dối của lòng người…

2. Sóng lòng hay sóng thi ca cứ vỗ vô biên giục giã anh viết, viết cho quê hương, viết cho thiên nhiên và thân phận con người. Với “Biển đời” xuất hiện một Nguyễn Ngọc Thu giàu trải nghiệm, qua những dông bão, bể dâu, ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, chỉ 27 đoản khúc viết cho người vợ hiền quá cố của anh đã rung lên trong ta những tiếng kêu thất thanh từ sự dồn nén khổ đau, thương nhớ. Sau đó sự xuất hiện của “Mùa hoa dã quỳ” anh lại gần gủi với thiên nhiên, với bao hoài niệm, bi hùng một thời trận mạc. Rồi qua “Ngôn ngữ tứ tuyệt” thơ anh đã có tầm khái quát cho những triết lý nhân sinh. Đến trường ca “Đã gần 40 năm” anh đã bộc lộ sự trăn trở của người lính sau ngày về đang tồn tại giữa hiện thực xã hội của thời anh đang sống với thái độ nghiêm túc mà nhìn nhận mọi diễn biến xã hội trước mắt anh. Bây giờ đến “Phía mặt trời” thơ Nguyễn Ngọc Thu có tầm khái quát, tư liệu chiến tranh là nguồn cảm xúc phong phú, sự chân thành, nghiêm túc, những hoài niệm đã mở ra và hướng tới cho thơ Nguyễn Ngọc Thu không lẫn vào ai được.


Nhà thơ Xuân Trường

Những bước chân lãng du qua mọi miến đất đã khơi gợi cho anh nguồn cảm xúc bất tận nhìn ngoại mà hướng nội, hòa hợp dân tộc hòa hợp gia đình “… Xa bao năm hội ngộ / Buồn vui chuyện trong nhà / Tiền tài không hẳn sẳn / Tâm tình thì bao la / Chuyện Quốc Gia Quốc Tế / Đụng đến là lệch pha / Tranh luận càng thêm rối / Yên lặng và tránh xa/ … Chiến tranh dã lùi xa / Lòng người còn sóng gió!” (Hội ngộ) hoặc là “Ngày xưa anh chị vượt biên / Nay người yêu nước mặc nhiên Việt Kiều / Dân như giọt nước thủy triều / Mặc cho trái đất xoay chiều xuống lên / Cho dù thế giới đảo điên / Gà cùng một mẹ Tổ Tiên… vẫn là!” (Hoàn cảnh). Mùa trong thơ Nguyễn Ngọc Thu luôn phảng phất hương quê, anh lại gần gũi với thiên nhiên “Tháng ba những trận mưa rào / Cá rô lạch vượt hồ ao ra đồng / Thảm lúa con gái ken chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” (Tháng ba). Lục bát không phải sở trường của anh nhưng “Lúa thì con gái kén chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” là hình tượng, là hiện đại ngôn ngữ, làm cho lục bát mới ra, một cách nhẹ nhàng. Nguyễn Ngọc Thu luôn mở lòng ra với thiên nhiên “Đã lập tiết sang đông / Sao Thu còn níu lại / Hờn giận mà làm chi / Xuân về ta xanh lại / Thời gian kéo mùa đi / Tình ta còn ở lại”.

Trong những nội hàm của cách phê bình hiện đại hôm nay là phê bình sinh thái hướng văn chương phải vào cuộc để cứu lấy môi trường sống đã và đang bị đe dọa từng ngày. Nguyến Ngọc Thu đã đi đúng hướng ấy trong “Phía mặt trời” có không ít những bài thơ gắn chặc thiên nhiên và con người. Đêm đêm hơi thở của mùa chinh chiến cũ đã phả vào anh những gian truân vội vả của ngày xưa, mùi hương của đồng đội, của quê hương, của núi rừng.

Hình ảnh của người vợ quá cố, mà anh đã hết lòng yêu thương “đi đâu em vẫn là số một”cứ hiện về. Tất cả làm cho thơ Nguyễn Ngọc Thu càng trăn trở, những bi hùng, những mãn hội ức, những khóc cười, những vật vả áo cơm, những gắn kết, quá khứ hào hùng và hiện tại đa đoan, thì anh đã tìm ra được hướng đi cho thơ và đời anh dã vượt qua gian khổ để tìm ra lẽ sống cho chính mình. Đây quý vị hãy nghe anh vô vi: “… Thân phận loài chim yến / Lấy cái chết làm đầu / Cả cuộc đời dâng hiến / Trọn kiếp đời đau thương” (Chim yến) và đây nữa: “Hình như em hiện hình về / Bóng em lẫn giữa bốn bè hoa lau / Âm dương cách trở đã lâu / Vẫn nghe tiếng vọng hai đầu nhớ thương” (Hình như).

Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”. Hai câu đầu là hoài niệm, hiện thực một thời, nhưng hai câu sau đậm chất thơ, nâng lên cung bậc cảm xúc, một phát hiện rất gần gủi mà ít ai nghĩ ra, đúng là cười ra nước mắt vì mừng quá đấy thôi. “Phía mặt trời” là thông điệp bình yên, mở ra và hướng tới, vượt qua những bóng tối để mà tồn tại, để mà thủy chung, để mà gắn kết, phải chăng nó là liều thuốc quý giá giúp cho đời bình sinh sau những phong ba bão táp hãi hùng.

Khép lại trang viết này vẫn chưa hết những điều tôi muốn nói cho thơ Nguyễn Ngọc Thu. Xin quý vị hãy tiếp tục cảm nhận. Chúc anh thành công trong hướng đi của mình, cũng là trong cái nghiệp, cái vô thường của thi ca.

X.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm