TIN TỨC

Một cách đọc thơ có vị “KHÉT”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-13 16:33:39
mail facebook google pos stwis
1004 lượt xem

TUẤN TRẦN

Một lối kiến tạo thơ đầy bi cảm. Nhà thơ đã hút dịch đời mà tạo tác nên những vần thơ dồn nén, có lúc bức bối độ nghẹt thở. Thế nhưng, thứ thơ đó hoàn toàn không nằm ở vị trí bên lề, mà mang hơi thở thời đại, can thiệp trực diện vào đời sống đương đại. Trần Đức Tín đã hữu hình hóa thế giới nội cảm, góc khuất và chiều sâu tâm tưởng để cho ra một vị thơ “khét”. Vị thơ đó được đốt cháy rực từ những sợi chỉ mà tác giả đã kết bện, giăng mắc, bắt nối với đời sống bằng những cảm hiểu rất riêng:

Trần Đức Tín đã giao hạnh phúc cho sầu muộn canh giữ. Trần Đức Tín đã sống lâu, bền bỉ, trọn vẹn với những thanh trắc. Thanh trắc đã nở rộng một khung trời thơ. Thanh trắc đã giúp cho tiếng việt trong thơ anh trở nên sâu khuất và sâu sắc đến độ đóng cặn. Trần Đức Tín trước hết là một nhà thơ yêu tiếng việt bằng tình yêu nghiệt ngã và chỉ có thanh trắc mới đủ sức nặng để tỏ tường cùng anh: “tiếng toạc toẹc ung khói chiếc kohler/ nhuộm sẫm màu chiều bên xóm vắng” (Tôi nhớ cà mau cùng nhịp thở long đong).


Tuấn Trần (phải) và Trần Đức Tín (Khét)

Ảnh tượng nghệ thuật trong thơ Trần Đức Tín luôn có cái lạnh lẽo, nghiệt ngã, hoang liêu, chìm mỵ. Anh đã chiêm ngắm đời mình, chiêm ngắm cả sự long đong, lận đận lẫn những cằn cỗi, bạc lãnh bể dâu. Anh viết thơ trước hết vì nghệ thuật, vì mình. Anh cho ra thơ hơi thở hấp hối mà không cần biết về sự đời tiếp nhận. Chỉ cần biết anh đã viết để hoàn thiện, tự đủ đầy chính mình. Ấy thế mà thơ anh lại phức hợp với đời sống một cách nồng nhiệt. Người đọc, người đọc trẻ khi đọc thơ anh họ muốn nghĩ cùng, nghĩ khác, nghĩ tiếp cùng những vần thơ “vờ” thảm thương đó. Họ thấy được vẻ đẹp có màu sắc, hình khối, vằn viện từng đường nét hoa văn trong những ảnh tượng nghệ thuật.

Cả tuổi thơ anh đầy chiêm trải, trải bày ra sự dữ dội. Đứa trẻ nhà quê phơi ngửa định mạng trên những vùng đất quê hương còm cõi. Anh đã cặm cụi đẽo tạc nên những vần thơ mang hình bóng đời mình đáng thương. Đứa trẻ nơi quê nghèo, quánh vắng, đầu trần chân đất vẫn tự xây cho mình những niềm hân hưởng trong cảnh sống bị truy bức đuổi xô bởi cái đói, cái nghèo: ôi nhớ tôi/ ngày tháng rong chơi/ ruộng đồng nứt nẻ/đầu trần chân đất/con diều giấy nở nụ cười/ những trưa hè sũng ướt cá lia thia/ mỗi cọng rơm là một tia nắng mặt trời. Đọc thơ anh thấy được sự gò gẫm công phu của tứ- hình- tình. Vẫn là hình ảnh quen thuộc: nhảy lò cò, chuồn chuồn cắn rốn, bờ bãi… Nhưng rung ngân giọng điệu bỏng rát.

Nhà thơ có lúc đã vong thân, đã rút [tôi]  ra khỏi chính mình để “Tôi chở tôi về quê” (Lưu lạc). Mẹ và hương thôn vẫn thế, nhưng lòng người đã dời đổi biến hóa. Chẳng đứa con nào ra đi mà còn giữ nguyên mình đẹp đẽ được như tập vỡ mà mẹ đã viết nên. Tác giả cũng vậy, trước sân khấu đời đầy màu sắc phũ phàng, lưu động trên khung nhân sinh mất thăng bằng, đôi lúc ta trở nên thiếu vắng con người trong ta và “mang hình hài lưu lạc”. Có lúc lạc cả nẻo về cội nguồn…

Trong “Ngồi dỗ í à” Nhà thơ đã ngồi vỗ về nỗi buồn của mình. Nhà thơ đang bất lực bởi giấc mơ tự do, khát vọng tự do nhưng lại bị khung khổ trong những giới hạn cá nhân nhỏ bé để nó rỉ ứa, ứa tràn, lênh loáng quẫy đạp và sau những bất ưng là thỏa hiệp “Sứ mệnh của lúa là về trời/ thương không cần phải đúng”. Tác giả vật vờ hỏi trong nỗi thương hoang: “Chiều vàng trong mắt người/ hay người mang dấu úa tàn của tôi”. Cả bài thơ “ru đứa con buồn”. Tiếng ru của người mẹ điên, thương con hoàn toàn bản năng trong từng giọt máu. Đứa con buồn như tấm liệm phủ lên bao chứa chan.

Và sau tất cả giữa vô số những nỗi cơm áo, thấm nghiệm gió bụi, những phong nhiêu, đày mình để yêu đến đốn con tim, bàng hoàng cơ thể. Tác giả lại trở về “Ru”. Trở về với cái mong manh bản năng của người nghệ sĩ, sự truy bức đuổi xô theo âm thanh của những đau đớn róng riết đã nhường chỗ cho sự nhẹ nhàng, khinh khái, bùi ngùi đến chìm lắng vào vô thức. Tôi đã thấy Anh Trai ngã lòng trước ca dao. Và ca dao mới thực sự là thứ giúp tiếng thơ anh hiển lộ tới vô cùng: uẩn súc.

Em về giũ nhánh ca dao
À ơi… vàng võ chênh chao ngõ làng
Thám hoa bướm đậu hoa vàng
Ru lên mấy nhịp úa tàn tích xưa
Tôi về ngủ cạnh ban trưa
Trưa còn dột nắng nên mưa lỗi thề
Tấm ngồi khóc mướt cơn mê
Tôi còn ngụp lặn lê thê đời mình
Nhịp cầu ru nhớ rung rinh
Tôi mang lá đốt thư tình vào thu
Sông nằm ru trái mù u
Tôi - em ru cạn thiên thu cuộc người

                                      (Ru)

Trải nghiệm đọc Trần Đức Tín, người anh cả trong gia đình thơ trẻ Phương Nam thực sự nhiều cảm ngộ, tri ngộ, nhiều những cái đẹp nhói tim. Tính cứng và ánh thép trong những thanh trắc được kết mong manh bởi những từ, những chữ, những ảnh, những hình, những khoảng trống, những khoảng biến thiên rộng hẹp đã tạo ra trong sâu thẳm một lõi mềm mại, ẩn nhẫn, cô độc. Đó là cái ấm áp nơi trái tim lửa, muốn khám phá phải chọc tay luồn qua sự bập bùng.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm
“Thu thức giấc” của Trịnh Bích Ngân - Mùa của những rung động
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 4/2025
Xem thêm
Bây giờ tôi chỉ muốn nói: Cảm ơn!
Bài của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Các cuộc chiến trong lòng chiến tranh...
HOÀNG HÔN DÁT ĐỎ là cuốn tiểu thuyết của Nhà văn Tố Hoài do Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2016.
Xem thêm
Đặng Nguyệt Anh - Một hồn thơ không tĩnh vật
Bài của PGS.TS Hồ Thế Hà đăng tạp chí Sông Hương
Xem thêm
Mai Quỳnh Nam và một phía
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về thơ Mai Quỳnh Nam
Xem thêm
Một đêm trăng không dễ có ở trên đời!
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Một vọng âm quá khứ hào hùng nhưng lắm đau thương
Đọc “Hòa âm đêm”, Nxb Hội Nhà văn, 2024 của Trương Tuyết Mai
Xem thêm
Khám phá vương triều Tiền Lý qua tiểu thuyết lịch sử
Thượng tá, nhà văn Phùng Văn Khai là người khá đa di năng. Từ lúc bước vào văn nghiệp, anh viết kí, truyện ngắn, làm thơ, cày báo… đều đặn, thuộc dạng “nhạc nào cũng nhảy được” và nhảy khá hay.
Xem thêm
Triệu hạt tâm hồn rót đầy biển tình yêu
Võ Thị Như Mai đọc PHẢI CHI MÂY TRẮNG KHÔNG NGANG NGÕ, Nguyễn Đức Quận, NXB Hội nhà văn, 2024.
Xem thêm
Tiểu luận Võ Quốc Việt: Vài cảm nhận về Cuộc thi Thơ 1-2-3
Cuộc thi Thơ 1-2-3 (The 1-2-3 Poetry Style/ Phannist Poetry) năm 2024 – 2025 đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các tác giả trong lẫn ngoài nước và đã công bố kết quả. Nhà lý luận phê bình, nhà thơ Võ Quốc Việt – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thay mặt Ban Chung khảo đã có bài tiểu luận công phu, sâu sắc mang tính tổng kết về cuộc thi. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Xem thêm
Đọc tập thơ Dọc đường máu của Vương Cường
Nguyên Hùng giới thiệu tập thơ mới của Tiến sĩ nhà thơ Vương Cường
Xem thêm
Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
Bái viết về tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân (NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)
Xem thêm
“Ai cũng có ngày xưa” của nhà thơ Trần Duy Hiển
Gió vẫn thổi suốt chiều dài trận mạc/ Người nhẹ nhàng nằm lại lúc vượt sông
Xem thêm
“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay
Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên/ Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Xem thêm