TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”

Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-03 23:24:14
mail facebook google pos stwis
302 lượt xem

LÊ XUÂN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.

Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”

 

Tôi và chị có những điểm chung: cùng học Đại học Sư phạm 1 Hà Nội, cùng dạy Văn trường chuyên, cùng làm công tác thanh tra giáo dục, cùng có học sinh đạt giải quốc gia môn Văn, cùng viết Lý luận phê bình và làm thơ. Chị đã thử sức mình ở nhiều thể loại: Lý luận phê bình, thơ, truyện, ký nhưng thế  mạnh của ngòi bút Đỗ Nguyên Thương vẫn là Lý luận phê bình bởi nó gắn liền với nghề dạy Văn, về phân tích giới thiệu tác giả, tác phẩm trong và ngoài nước có trong chương trình, và đặc biệt là những chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Văn cấp quốc gia. Chị đã xuất bản tác phẩm Lý luận phê bình “Đi tìm vẻ đẹp văn chương”  3 tập  và một tập thơ được đông đảo bạn đọc đón nhận. Và giờ đây chị lại thử sức ở thể loại thơ mới, thơ 1-2-3 với tập “Tìm về miền ký ức”.

Thơ 1-2-3 là một thể thơ mới do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng và thể nghiệm gần bốn năm nay, đã có hàng nghìn bài thơ và hàng trăm tập thơ 1-2-3 ra đời của các tác giả trong và ngoài nước hưởng ứng. Song, để làm một bài thơ 1-2-3 cho hay ở thể loại này không phải dễ. Vì nó có quy định nghiêm ngặt về số câu (6 câu) số chữ tối đa ở mỗi câu, kể cả đầu bài (Khổ 1 là 1 câu- đầu đề bài thơ, tối đa 11 chữ. Khổ 2 có 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ, và Khổ 3 có 3 câu, mỗi câu tối đa 13 chữ. Câu đầu và câu cuối phải có sự hô ứng để làm rõ chủ đề bài thơ). Một bài thơ hay cần nhiều yếu tố, nhưng có ba yếu tố quan trọng như nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã nói:

Túi nhà thơ có ba ngăn

Tứ, Từ, Tư đủ quanh năm tiêu xài.

(Một là có Tứ thơ mới lạ, hai là Từ ngữ dùng đúng lúc, đúng chỗ, ba là tính tưởng của bài thơ phải cao và đẹp). Thơ Đỗ Nguyên Thương dù viết về đề tài nào, thể loại nào cũng đằm thắm một tình yêu đôn hậu, chân tình, tạo được sự lắng đọng nơi trái tim người đọc. Một hồn thơ  như thế luôn chứa đựng những buồn, vui, sướng, khổ về nhân tình thế thái.

Riêng tên tập thơ 1-2-3 “Tìm về miền ký ức” đã toát lên chủ đề của những bài thơ. Đó là những kỷ niệm đẹp về quê hương với bốn mùa xuân hạ thu đông rất đáng yêu. Đó là những kỷ niệm về tuổi học trò, tình đồng nghiệp gắn với bảng đen phấn trắng. Đó là tình bạn, tình yêu, là những ước mơ, hy vọng đẹp. Mỗi bài thơ như một lát cắt về cuộc sống và con người trong quá khứ và hiện tại, tương lai. Ký ức là hành trang theo ta suốt đời, là nguồn sữa mẹ nuôi ta trên mỗi chặng đường. Bài “Ký ức” có thể coi là tuyên ngôn của tập thơ:

 Ký ức

Là những gì hôm qua mà hôm nay còn thức

Chẳng chịu ngủ yên năm tháng qua rồi

 

Có buồn, có day dứt, có vui

Có hình ảnh người thân và rất nhiều cảnh vật

Nuôi lớn trong ta như sữa mẹ tinh thần.

Những ký ức ấy hiện lên vẻ đẹp đáng yêu qua cách cảm, cách nghĩ thấm đậm tình đời, tình người rất trong sáng và nhân văn qua “Đôi mắt nhìn đời”:

Đôi mắt nhìn đời

 

Nhìn đời qua lăng kính yêu thương

Mọi sự vật lung linh hơn dáng hình sẵn có

 

Xung quanh đều là bạn, cả lá hoa cây cỏ

Ai cũng đẹp hơn và thánh thiện hơn nhiều

Thế giới diệu kỳ - thế giới thật đáng yêu.

 

Tình cảm này, hồn thơ này qua “lăng kính yêu thương” sẽ lan tỏa khắp tập thơ, nó như chất xúc tác để gắn kết tính hiện thực, tính lãng mạn và tính thẩm mỹ và từ đó toát nên tính tư tưởng cao đẹp, không gượng ép hô hào kiểu khẩu hiệu.

Đỗ Nguyên Thương viết Lý luận phê bình văn học là chính, và chị đến với thơ như một sự tình cờ để giãi bày những ẩn ức, vui buồn của cuộc đời. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường chị đã rất yêu thơ. Giấc mộng văn chương vẫn đeo bám chị trên mỗi chặng đường. Chính tình yêu nghề và sự đam mê văn chương là ngọn lửa thắp nên niềm đam mê để chị viết khỏe, để cảm xúc thơ luôn thăng hoa qua tư duy hình tượng kết hợp hài hòa với tư duy logic.

Ở “Tìm về miền ký ức”, người đọc thấy rõ hơn những rung động của con tim trước vẻ đẹp của quê hương đất nước. Đó là những cung đàn vang ngân của tâm trạng. Đó là những bức tranh về thiên nhiên khi mơ màng, lung linh ẩn hiện như tranh thuỷ mặc, khi điệp trùng hùng vĩ như núi cao, biển rộng, khi thủ thỉ như lời tâm sự lứa đôi hiện ra ở các bài: Mưa mùa hạ, Nói với mùa xuân sắp đến, Mùa đông và nước hoa, Đông lạnh cần hơi ấm, Chiều Trung du, Hồ mờ sương, Mộc Châu mãi xanh trong ký ức, Về quê đất Tổ đi anh, Về Ngã ba Đồng Lộc… Những bài thơ là những bức tranh nội tâm với nhiều gam màu thương nhớ. Hãy lắng nghe lời tâm tình trước Mưa mùa hạ. Mưa của thiên nhiên và mưa của tình yêu đôi lứa?

Mưa mùa hạ

 

Gõ vào mái tôn nhà hàng xóm

Gõ vào khung cửa sắt nhà mình

 

Âm thanh mạnh mẽ, hào sảng và khô đanh

Làm dịu mát những ngày hè nóng bức

Và anh làm dịu khát trong em là có thực, bốn mùa.

Ở khổ 1 là câu thơ đầu bài mang tứ thơ “Mưa”, và từ đó nhà thơ triển khai bằng hai câu tả thực ở khổ 2: Mưa gõ vào mái tôn hàng xóm và gõ vào khung cửa sắt nhà mình. Tiếng gõ của mưa làm bừng tỉnh không gian, đánh thức giác quan và sự rung động để dẫn đến khổ 3: Là những nhận định mang hình hài lý trí “âm thanh mạnh mẽ, hào sảng và khô đanh/Làm mát những ngày hè nóng bức”. Và câu kết mới là “điểm sáng thẩm mỹ”, khép lại tứ thơ: “Và anh làm dịu khát trong em là có thực, bốn mùa”. Câu 6 góp phần “hô ứng” với câu 1 – đầu đề bài thơ. Và người đọc thấy mưa chỉ là cái cớ để chị mượn nói về tình yêu - một tình yêu đích thực, khát khao suốt năm tháng (bốn mùa). Có thể xem đây là cơn “mưa tình” rất đẹp, nó làm dịu mát tâm hồn ta với bao hy vọng đợi chờ trong xa cách nhớ thương. Bài thơ được đưa lên đầu tập thơ làm đọc giả muốn đọc tiếp một mạch để khám phá vẻ đẹp của các bài thơ khác. Thơ 1-2-3 có được những bài đầy liên tưởng ẩn dụ như vậy không nhiều.

Trong mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương để thương để nhớ, và nếu Quê hương nếu ai không nhớ/Sẽ không lớn nỗi thành người (Đỗ Trung Quân), thì chị đã cho ta thấy một tình quê hương, đất nước nồng nàn, tha thiết. Bàn chân chị đặt đến vùng đất nào là những địa danh vùng đất ấy ùa vào trang thơ. Nào Đền Hùng, đất Tổ, Việt Trì (Phú Thọ) hay Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), Mộc Châu (Sơn La). Nào Hồ Xuân Hương (Đà Lạt), đường lên Tây Tiến  hay miệt vườn Tây Nam Bộ…Cảnh sắc thiên nhiên và con người cứ hiện lên qua mỗi vần thơ như một đoạn phim quay cận cảnh, thật đáng yêu dường nào. Trong hành trang nỗi nhớ của những kỷ niệm xưa, Đỗ Nguyên Thương luôn khắc sâu về những vùng đất chị đã qua và nơi chị trở lại. Nơi đó không biết giờ này ra sao, nỗi hoài niệm cứ dâng lên tầng tầng lớp lớp. Nếu không có tâm hồn lộng gió bốn phương và cái nhìn đầy nhân ái, làm sao có được những vần thơ như thế. Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ chị chính là tình yêu đời, là nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, là sự hiến dâng tự nguyện cho hạnh phúc cộng đồng, về tình yêu đôi lứa. Từ những rung động vi mô đến những rung động vĩ mô của con tim đều ẩn chứa trong thơ chị. Bài “Về quê” là tiếng mời gọi tâm tình nhỏ nhẹ rất nữ tính: “Về quê/Về quê em đi anh/Nắng vẫn nắng và hoa sen khoe sắc/Gió vẫn tự tình khúc hát trung du/Khúc nắng hạ dọn dẹp đợi mùa thu/Như em đợi anh, bất chấp hè nắng gió”. Đó cũng là tiếng gọi của quê hương, tiếng gọi của tình yêu với người xa xứ.

Nhà Lý luận phê bình văn học Đào Thái Sơn đã viết “Bản chất của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng, chính vì vậy mà hình tượng nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm văn học nghệ thuật”. Hình tượng trong thơ chị ẩn chứa trong ánh mắt và con tim của nhân vật trữ tình, có khi hiện ra dễ thấy một cách chân thực và mang tính triết luận: “Một cuộc đời ý nghĩa khi hoàn thiện giấc mơ vui”, hay “Trong em, anh là hòn sỏi nhỏ sức mạnh vô song”, hoặc “Ánh sáng từ biển tri thức vô bờ tan lạnh giá con tim”…Những câu thơ về tình yêu như thế ghim được vào trái tim người đọc. Lại có khi hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu thơ ẩn hiện như con “rồng thần” khó nắm bắt. Khi viếng thăm Ngã ba Đồng Lộc, nhìn kỷ vật đơn sơ mà thấy lòng nghẹn đắng một miền xanh ký ức, để rồi “Có tiếng nhói phía sau lồng ngực/Nghẹn ngào/Thương…”. Tôi có cảm giác như thấy những giọt nước mắt của cái tôi trữ tình đang lặng thầm chảy ngược vào tim. Hoặc những câu thơ gợi nhiều liên tưởng “Bên cây xanh thấy lãi nhiều ngày” (Vui một ngày là lãi một ngày)

Ở mảng thơ thời áo trắng sân trường, tuy không mới nhưng chị đã tìm được tứ thơ và có cách thể hiện một cách hồn nhiên, chân tình gần gũi ở các bài: Sân trường ngày hiến chưng nhà giáo Việt Nam, Một ngày vui tại trường em… và đó chính là những vần thơ  “nhịp cầu nhân vạn dặm yêu thương”… để vui cùng thầy cô bè bạn ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 hàng năm, để được ôm hôn bè bạn cùng trang lứa, để được các em học sinh vây quanh như đàn chim tìm về tổ ấm của lớp mình năm xưa.

Trong miền ký ức sâu thẳm của tập thơ, có nỗi nhớ, niềm thương, niềm tin và những khát khao, hy vọng. Nó cứ trải dài theo mỗi bước chân của chị trên mỗi cung đường. Sáu mươi ba bài thơ 1-2-3 của chị không bị câu thức bởi luật thơ. Chị đã cố gắng nén năng lượng chữ ở mỗi câu thơ. Có câu chỉ một chữ có câu 2,3,4,,6,7 chữ, ít có câu tối đa 13 chữ. Hình ảnh, nhịp điệu của cảm xúc trữ tình được diễn đạt một cách dễ hiểu, luôn toát lên lòng lạc quan yêu đời.

Gương mặt thơ Đỗ Nguyên Thương qua thơ 1-2-3 đến với bạn đọc đã để lại nhiều cảm mến. Chị đã đánh thức con tim của bao người về những miền ký ức đẹp xa vời qua ngôn ngữ vừa dân dã vừa hiện đại, có sự kết hợp khéo léo giữa ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ văn chương. Điều đó đã góp phần làm cho nhiều bài thơ nổi gió, bay cao như giai điệu vút lên ở những bản nhạc. Tôi tin rằng thơ chị sẽ còn bay xa và vang vọng hơn nữa. Mong rằng thơ 1-2-3 của chị luôn là một “hằng số bất biến” “mặc định” những thông điệp yêu thương đa sắc đa thanh tắm mát hồn người. Xin trân trọng giới thiệu tập “Tìm về miền ký ức” của nhà giáo, nhà Lý luận phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương cùng bạn đọc.

L.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm