TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng tìm chi tiết nhỏ cho cuộc đời lớn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-09 08:47:06
mail facebook google pos stwis
895 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đi qua làng văn bằng một cái dáng thấp đậm, vừa gần gũi chan hoà vừa nghiêng ngả phóng túng. Chính tính cách Nguyễn Quang Sáng làm phong phú thêm hương vị cho tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Công chúng thân quen thường lấy lối sống Nguyễn Quang Sáng mà soi vào trang viết Nguyễn Quang Sáng để thấy được những màu sắc lấp lánh khác nhau. Tuy nhiên, khi bình tâm đọc văn Nguyễn Quang Sáng thật khách quan, thì không thể nào phủ nhận ông luôn biết cách tìm kiếm những chi tiết nhỏ để vun đắp một cuộc đời lớn!

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng chọn bút pháp phản ánh hiện thực xuyên suốt hành trình sáng tạo. Trí tưởng tượng đối với ông giống như một món hàng xa xỉ, vì ông tích cực lặn ngụp trong dòng chảy đa dạng và bất tận của đời thường. Nhánh sông Tiền chảy qua ngôi nhà chôn nhau cắt rốn của ông không chỉ xuất hiện trong truyện dài thiếu nhi “Dòng sông thơ ấu” mà liên tục cồn cào sóng gió trong nhiều tác phẩm của ông. Vui buồn quê nhà dắt Nguyễn Quang Sáng vào văn chương bằng truyện ngắn đầu tay “Con chim vàng” viết tháng 6/1956 với bối cảnh hoài niệm “Cây trứng cá trước sân nhà đã hết mùa, sâu đo xanh đỏ thoăn thoắt qua những cành lá li ti màu phấn mốc…”. Nghĩa là, nhà văn Nam bộ Nguyễn Quang Sáng khởi nghiệp trong âm vang văn hoá sông Hồng!

22 tuổi, tập kết ra Bắc, Nguyễn Quang Sáng chỉ có một ưu điểm là đánh bóng bàn rất giỏi. Thế nhưng, khi cư ngụ ở ngôi nhà số 2 phố Cổ Tân – Hà Nội, Nguyễn Quang Sáng đã bái vọng quê nhà bằng hai tiểu thuyết “Nhật ký người ở lại” viết năm 1961 và “Đất lửa” viết năm 1963. Vì sao khẳng định như vậy? Vì bối cảnh của cả hai tiểu thuyết đều là xứ sở mà Nguyễn Quang Sáng từng sinh ra và lớn lên. Nhân vật Quang trong “Nhật ký người ở lại” sau giây phút bịn rịn tiễn những đồng chí đi tập kết đã quay về làng Mỹ Hưng hoạt động cách mạng và hy sinh oanh liệt. Nhân vật Sáu Sỏi trong “Đất lửa” cũng trở lại làng Mỹ Long Hưng vận động tín đồ Hoà Hảo đoàn kết đánh Pháp. Làng Mỹ Hưng của “Nhật ký người ở lại” và làng Mỹ Long Hưng trong “Đất lửa” đều lấy nguyên mẫu từ xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang mà Nguyễn Quang Sáng đã cất tiếng khóc chào đời ngày 12/1/1932.

14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng thoát ly theo cách mạng và được học ở Trường trung học chiến khu Nguyễn Văn Tố trong rừng U Minh. Tuy nhiên, nền tảng viết văn của Nguyễn Quang Sáng đều học ở thực tế, thực tế tranh đấu và thực tế xã hội. Những tác phẩm tiêu biểu như “Ông Năm Hạng”, “Tư Quắn”, “Quán rượu người câm” thời khói lửa và “Bàn thờ tổ của một cô đào”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Về lại bức tranh xưa” thời hoà bình, đều được Nguyễn Quang Sáng chưng cất từ thực tế trải nghiệm sinh động.

Hầu như toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng không câu nệ vào sách vở và tuyệt đối vắng bóng điển tích. Nguyễn Quang Sáng trực tiếp va đập với cuộc sống để nhìn, để nghe và để viết. Chỉ cần gạn lọc được chi tiết, thì Nguyễn Quang Sáng lập tức có những trang văn trần thuật hấp dẫn, như ông bộc bạch “Tôi mê chi tiết. Viết văn không chi tiết, chỉ nói như xã luận, thì còn ra gì”.

Sự khắc nghiệt của thời gian chắn chắn làm mai một nhiều giá trị mang thông điệp minh hoạ cho một giai đoạn văn chương nào đó. Thế nhưng, Nguyễn Quang Sáng nhờ vào thực tế kháng chiến của quân dân Nam bộ, đã có được truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xuất sắc. Đầu năm 1965, Nguyễn Quang Sáng vượt Trường Sơn vào Căn cứ trung ương cục miền Nam, thì tháng 9/1966 ông viết được “Chiếc lược ngà”.

Đại diện cho những trang văn trần thuật kiểu Nguyễn Quang Sáng, “Chiếc lược ngà” kết cấu bằng lời kể của một đồng chí già. Cách dẫn dụ “Các bạn ạ” của đồng chí già chia không gian “Chiếc lược ngà” ra làm hai lát cắt với khoảng cách 12 năm, nhân vật ông Ba gặp cô bé bơ vơ Thu 8 tuổi và tái ngộ cô giao liên Thu 20 tuổi. Tín vật kết nối cho khoảng cách 12 năm là chiếc lược làm từ ngà voi của ông Sáu dành riêng tặng con gái mình. Giữa hai lần Thu xuất hiện, Nguyễn Quang Sáng cài cắm hai chi tiết gây xúc động mạnh mẽ.

Chi tiết thứ nhất: Lúc Thu 8 tuổi, ông Sáu về thăm nhà sau 7 năm xa biệt. Cô bé Thu không chịu gọi “ba” vì trên mặt ông Sáu có vết sẹo do bị bom giặc, không giống người cha chụp ảnh chung với má mà cô bé vẫn thường thấy. Suốt ba ngày ông Sáu nghỉ phép sum họp gia đình, Thu không nhận cha. Khi ông Sáu đi, thì Thu thét gọi “ba” nghẹn ngào “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang tay ôm chặt cổ ba nó”. Cuộc hội ngộ ngắn ngủi kia, cô bé Thu gửi theo một mong mỏi “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.

Chi tiết thứ hai: Lúc Thu 20 tuổi, làm giao liên đưa cán bộ qua sông. Trước khi hy sinh, ông Sáu giao lại chiếc lược mà đích thân dùng miếng ngà voi và cái cưa làm từ vỏ đạn để chế tác nên hình nên dáng. Ông Sáu trao chiếc lược ngà cho Thu với lời nói dối thiện chí: “Ba cháu vẫn khoẻ, ba cháu không về được, nên gởi cho bác!” mà không thể ngờ Thu đã biết sự thật “Cháu chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu xin má cháu đi giao liên”. Và cái kết ấm áp từ hành động của ông Ba là “nhìn cháu, tôi bỗng buột miệng nói: Thôi, ba đi nghe con!”.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” có độ dài gần 7 ngàn chữ, không chỉ chia theo khoảng cách 12 năm mà còn chia thành hai câu chuyện: câu chuyện về tình cha con của ông Sáu với Thu, và câu chuyện tài trí của giao liên Thu. Một câu chuyện văn học và một câu chuyện điện ảnh. Nếu tách câu chuyện điện ảnh ra khỏi câu chuyện văn học, thì phẩm chất thẩm mỹ của truyện ngắn “Chiếc lược ngà” vẫn không ảnh hưởng gì. Thế nhưng, chính những trang miêu tả tỉ mỉ sự dũng cảm và khéo léo của giao liên Thu với nhiều hình ảnh ấn tượng, đã hé lộ khả năng một nhà biên kịch ở Nguyễn Quang Sáng. Do đó, ai đã đọc “Chiếc lược ngà” ngay thời điểm truyện ngắn này ra đời, chắc chắn sẽ không ngạc nhiên khi sau ngày đất nước thống nhất thì Nguyễn Quang Sáng thăng hoa tên tuổi qua các kịch bản phim “Mùa gió chướng” hoặc “Cánh đồng hoang”.

Cùng với “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng có một tác phẩm nữa viết ở chiến khu Tân Biên cần phải nhắc đến, là truyện ngắn “Chị Nhung”. Ngay trong đợt 1 của cuộc nổi dậy Mậu Thân, Nguyễn Quang Sáng và Lê Văn Thảo là hai nhà văn được trực tiếp tham gia. Ngoài vài bút ký, truyện ngắn “Chị Nhung” là thu hoạch của Nguyễn Quang Sáng từ thực tế khốc liệt tấn công vào đô thị Sài Gòn.

“Chiếc lược ngà” và “Chị Nhung” khá giống nhau về mô-tip. Nếu “Chiếc lược ngà” được kể bởi một đồng chí già, thì “Chị Nhung” được kể bởi chính trị viên tiểu đoàn Tám Sơn. Thu trong “Chiếc lược ngà” xuất hiện với hình ảnh một cô bé bơ vơ và một nữ giao liên gan dạ, thì Nhung trong “Chị Nhung” cũng xuất hiện với hình ảnh một cô bé đơn côi và một nữ giao liên can trường.

Nếu như Thu đưa cán bộ qua sông an toàn “cô vừa chặn địch, vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới…Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô mới ngây thơ làm sao, cô vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi…” thì Nhung mở đường cho bộ đội rút lui “trong trận đánh vào Bộ tổng tham mưu của Mỹ- Ngụy, lúc đánh trả lại các đợt phản kích của xe tăng địch, có một chiến sĩ bắn B.40 thọc họng súng qua các cửa sổ bắn đến viên đạn thứ mười sáu. Thấy hai bên tai anh rỉ máu, một chị chạy đến không cho anh bắn nữa. Chị giật súng trên tay anh và bắn tiếp. Nghe nói chị ấy cũng tên Nhung. Tôi muốn gặp chị để hỏi lại những chuyện ấy cho rõ hơn và do tính tò mò, tôi muốn gặp tận mắt một cô gái người Sài Gòn”.

Truyện ngắn “Chị Nhung” viết sau truyện ngắn “Chiếc lược ngà” khoảng 2 năm, yếu tố lịch sử của “Chị Nhung” cụ thể hơn “Chiếc lược ngà”, nhưng tính cách nhân vật nữ và cảm hứng sáng tác rất giống nhau. Nét độc đáo là nhà văn Nguyễn Quang Sáng đều khắc khoải được sẻ chia niềm che chở của tình phụ tử cho Thu và Nhung, vì hai cô bé đều có cha biền biệt kháng chiến.

Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là sự bồi hồi “Lúc chia tay, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe tiếng gọi “ba” của cháu, và tiếng “ba” như vang lên từ trong tâm tôi”, còn trong truyện ngắn “Chị Nhung” là sự xao xuyến “Bây giờ tôi thấy mình như một người cha đứng trước một đứa con. Tôi bước lại gần cháu, đưa tay vỗ nhẹ lên vai cháu…”.

Ngoài ra, nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có chút riêng tư dành cho Thu và Nhung, khi ông cố ý dời “hộ khẩu” cả hai nhân vật được thai nghén ngẫu nhiên ấy, cùng về quê nhà An Giang của ông. Nhân vật Thu thì nguyên quán “Cù lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa”, còn nhân vật Nhung thì “cháu là người Tân Phú Đông, tỉnh Long Châu Sa”. Có lẽ, cần ghi chú thêm rằng, tỉnh An Giang có lúc chuyển đổi thành tỉnh Long Châu Sa, là địa danh hành chính gộp lại của Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Rõ ràng, nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một người con nặng lòng với cội nguồn.

Tuy không được đưa vào sách giáo khoa để phổ cập rộng rãi bằng truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, nhưng truyện ngắn “Chị Nhung” ngay sau khi công bố cuối năm 1968 đã có tiếng vang rất lớn. Năm 1970, Hãng phim truyện VN đã đưa truyện ngắn “Chị Nhung” lên màn bạc, do Nguyễn Đức Hinh và Đặng Nhật Minh làm đạo diễn, Lê Vân đóng vai nữ chính! Nhà văn Nguyễn Quang Sáng thổ lộ nhờ cơ duyên đó “như mở thêm cho tôi một con đường viết kịch bản phim”.



MỘT VÀI HÌNH ẢNH TẠI HỘI THẢO NGUYỄN QUANG SÁNG - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm
Bi kịch tiếp nối bi kịch
Bài viết về truyện KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM – truyện ngắn của Trầm Hương
Xem thêm
Thơ Bùi Minh Vũ từ góc nhìn địa - văn hóa
Từ góc nhìn địa – văn hóa và mỹ học sinh thái, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài viết công phu, thấm đẫm cảm xúc và tư duy học thuật về thơ Bùi Minh Vũ – đặc biệt là tập Những tiếng đàn hồng (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Xem thêm
Nhà thơ Xuân Trường – mẫn cán và lãng tử
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết về “Hai vệt nắng chiều”, thơ Xuân Trường, NXB Hội Nhà Văn 2018
Xem thêm
Ánh sáng cuối chiều và ký ức người lính thi sĩ
Tập thơ Giọt nắng cuối chiều của Trần Ngọc Phượng là một tuyển lựa tâm huyết, ghi lại hành trình sống và cảm từ một đời người từng trải: từ trận mạc đến hậu chiến, từ ký ức cá nhân đến thế sự chung.
Xem thêm
Đặc trưng giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn
Bậc thầy truyện ngắn Nga A.P.Chekhov (1860 - 1904) từng cho rằng: “Muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu văn chương (hay giọng điệu nghệ thuật) là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là trong truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 2)
Sau phần đầu khiến giới văn chương phải xôn xao, TS Hà Thanh Vân tiếp tục “lên tiếng” bằng phần 2 – nhiều dẫn chứng, thuyết phục hơn và không kém phần lôi cuốn…
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 1)
Bài viết dưới đây của TS. Hà Thanh Vân là một góc nhìn thẳng thắn về chất lượng một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì báo Văn nghệ.
Xem thêm
KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!
Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh/ Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm.
Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm
Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn
“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương.
Xem thêm