TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Trí Huân với tiểu thuyết Chim én bay

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-03-19 22:28:51
mail facebook google pos stwis
1802 lượt xem

“Chim én bay” là tên cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm 1988 và cùng với tiểu thuyết “Năm 1975 họ đã sống như thế”, xuất bản năm 1979, nhà văn Nguyễn Trí Huân đã được nhận “Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật” năm 2007. Và cái tên “chim én bay” tôi xin phép được lấy để làm tựa cho bài viết này.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân sinh năm 1947, tuổi Đinh Hợi. Gặp ông tôi đùa: “Em nghe người ta nói, ai tuổi Đinh Hợi sẽ là người đường sự nghiệp có thể lên cao. Số sống sang cả, vấn đề tiền tài chỉ là vấn đề phụ thuộc công danh, khi công danh đã lên cao thì sự nghiệp và tiền tài thêm phần vững chắc và sung túc. Có đúng phải vậy không bác?”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân mỉm cười, khuôn mặt ông chợt đỏ lên như người xấu hổ vậy (thực ra nhà văn Nguyễn Trí Huân là người khiêm tốn, có người bảo ông sống khép mình, nên hễ nghe ai “khen” là mặt ông lại đỏ), ông mãi lâu mới nói: “Chắc là người ta nói vui thế thôi”. Tôi được đà: “Mà em thấy số tử vi nói cũng đúng đấy bác ạ”.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân

Năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng trai trẻ Nguyễn Trí Huân lên đường nhập ngũ, ông làm lính tại Quân chủng Phòng không – Không quân. Chính ở môi trường của một quân chủng non trẻ mà huy hoàng, với những chiến công sáng chói, bắn máy bay Mỹ “rụng như sung” trong suốt những năm cả miền Bắc đánh trả không quân Mỹ ấy, đã thôi thúc anh lính trẻ vốn là học sinh giỏi văn của trường cấp 3 Đan Phượng cầm lấy cây bút.

Những bài báo ra đời cùng với những trang bản thảo văn học “nóng hôi hổi” đã đưa anh chiến sĩ trẻ Nguyễn Trí Huân trở thành “cây viết” của Quân chủng Phòng không – Không quân. Và rồi anh chiến sĩ phòng không thích viết văn, làm báo ấy năm 1971 được cử tham gia học Khóa 4, Lớp Viết văn do Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Uỷ ban Thống nhất của Chính phủ tổ chức tại Nhà sáng tác Quảng Bá, Hà Nội. Đối tượng tham dự khoá học là những sinh viên năm thứ 3, thứ 4 Khoa Ngữ văn (có số ít Khoa Sử) của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Trí Huân cùng với các cây bút quân đội như Triệu Bôn và Phạm Minh Lợi và một số cây bút khác là cán bộ dân sự cùng được cử tham gia khóa học.

Buổi chia tay khóa học diễn ra vô cùng xúc động bởi lẽ đây không là buổi lễ bế giảng thông thường như các khóa học thông thường mà đó chính là “buổi chia ly màu đỏ”. Các học viên tốt nghiệp đều được “xung” vào quân ngũ và được đi B luôn. Hôm ấy Nguyên Hồng, ông nhà văn “xóm Cầu Đen”, già dặn văn trường từ hồi mới 20 tuổi thế mà ông cứ nắm chặt tay từng học viên một và khóc.

Nguyễn Trí Huân cùng với Phạm Minh Lợi được cử vào B3 (Khu 5), còn Triệu Bôn đi “sâu” hơn là tới tận B2 (miền Đông Nam bộ). Từ Trạm giao liên Cự Nẫm (Quảng Bình) nhóm “nhà văn ra trận” xuống xe đi bộ theo đường Trường Sơn. Nhà văn trẻ Nguyễn Trí Huân vào tới Quảng Nam thì được nhà văn Nguyên Ngọc cử người ra đón về Bộ Tư lệnh Quân khu 5 khi đó đóng ở miền Tây Quảng Nam. Những tưởng vào tới chiến trường rồi là sẽ được “ra trận”, ai dè, như nhà văn Nguyên Ngọc đã phổ biến “Giờ các cậu lên chỗ tăng gia của quân khu ở Ðak Sao, Kon Tum để sản xuất cái ăn trước đã”. Đang hừng hực mà được phổ biến như vậy nên Nguyễn Trí Huân thấy hơi bị hẫng. Và nhất là khi vào tới Bộ Tư lệnh quân khu được mọi người ùa ra chào đón và chờ quà Tết từ ngoài Bắc vào nhưng dọc đường hành quân, trong ba lô của mình có bao nhiêu thuốc lá, bánh kẹo đã chia cho bộ đội hết.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân kể cho tôi nghe chuyện mà giọng ông nghèn nghẹn: “Tôi cứ ân hận mãi. Tết năm ấy vẫn là khoai sắn thôi”. Tôi hiểu, tận trong sâu thẳm lòng mình ông vẫn một lòng gắn bó với mảnh đất “Khu 5 dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Đúng là ông rất gắn bó thật, có một dạo mọi người cứ ngỡ ông “là người” của Sư đoàn 3 Sao Vàng anh hùng chiến đấu ở mặt trận Bình Định. Hỏi ra mới biết, mỗi khi được cử đi thực tế với bộ đội thì lần nào ông cũng “đi với Sư 3”. Ông đi với cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 3 nhiều lần, đến nỗi ngoài cây bút và cuốn sổ tay ghi chép ra, ông còn trực tiếp cầm súng đánh nhau như một người lính trận. Và cũng vì thế mà ông được Tư lệnh Sư đoàn 3 đề nghị lên cấp trên cho ông được nhận Huân chương Chiến công từ chính đơn vị này.

Tôi hỏi thêm: “Bác đi với Sư 3 nhiều thế, bác có viết nhiều về Sư 3 không?”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân lần này không cười đỏ mặt nữa, ông hào hứng: “Viết nhiều lắm. Tiểu thuyết “Năm 1975 họ đã sống như thế” tôi viết về những người lính của Sư 3. Sư 3 chính là “nhân vật” xuyên suốt của tiểu thuyết”. Tôi gật đầu: “Thảo nào đọc cuốn ấy em thấy ký ức về chiến tranh trong những mảng chất liệu tươi nguyên, ròng ròng sự sống như thể tiếng súng vừa ngưng nghỉ ngày hôm qua vậy”.

Miền Nam được giải phóng, cũng như các nhà văn – chiến sĩ trưởng thành từ các mặt trận khác, Nguyễn Trí Huân được cử đi học ở Trường Viết văn Nguyễn Du, ông học Khóa 1 từ 1979. Khóa ấy có 44 học viên, toàn “nhân tài đã nổi danh” cả. Đó là các nhà thơ nhà văn: Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trung Trung Đỉnh, Xuân Đức, Thái Bá Lợi và nhiều người khác. Tốt nghiệp “Nguyễn Du” năm 1982, nhà văn Nguyễn Trí Huân được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông gắn bó với “Nhà số 4” từ đó, trưởng thành từ Biên tập viên lên đến Tổng biên tập. Ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội lâu nhất, những 14 năm.

Thấy vui vui tôi hỏi thật: “Trong sách bác toàn viết về những người lính chứ chả thấy bác nói gì về mình cả. Hay là hôm nay bác kể chuyện nào mà bác nhớ nhất hồi bác ở chiến trường ấy”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân chỉnh lại tư thế ngồi, hình như ông muốn ngồi cho chắc chắn hơn thì phải. Rồi ông nói: “Kể về những lần mình hút chết nhé”.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân đã xuất bản các tác phẩm chính: “Mặt cát” (tập truyện ngắn, 1977), “Năm 1975 họ đã sống như thế” (tiểu thuyết, 1979) “Dòng sông của Xô nét” (tiểu thuyết, 1980), “Chim én bay” (tiểu thuyết, 1988), “Dấu thời gian” (ký, 2004).

Năm 1968, anh lính trẻ, cây viết trẻ của Quân chủng Phòng không – Không quân được cử đi thực tế ở Sư đoàn phòng không 367, Sư đoàn đang bố trí trận địa bắn máy bay Mỹ ở Quảng Bình. Một trưa yên ắng, mọi người đang chuẩn bị ăn trưa thì bất ngờ những chớp lửa lóe lên rồi xung quanh u đặc bởi những tiếng nổ dồn dập. Máy bay Mỹ lao tới bất ngờ và liên tiếp thả bom bi xuống trận địa ta. Cùng với mọi người, phóng viên Nguyễn Trí Huân cũng chỉ kịp chúi đầu xuống gầm bàn. Bỗng anh thấy đau nhói ở bụng chân.

Dứt loạt bom, mọi người nhao nhao hỏi: “Anh nhà báo đâu rồi?”. Họ đã nhìn thấy anh và một người nhanh chóng xốc anh lên lưng chạy dọc giao thông hào vào hầm trú ẩn. Rất may Nguyễn Trí Huân chỉ bị thương nhẹ. Anh được mổ gấp gắp những viên bi ra. Nhà văn Nguyễn Trí Huân cười: “Giờ trong cơ thể tôi vẫn còn ba, bốn viên bi nằm ở đâu đó”. Rồi ông nói thêm: “Chuyến đi đó tôi viết được bài ký “Ghi chép ở một trận đánh”. Kể cũng vui vui”.

Rồi năm 1985, nhà văn Nguyễn Trí Huân được cử sang chiến trường Campuchia. Một lần ông đi cùng các chiến sĩ tới Xiêm Riệp. Giai đoạn này ở Campuchia ít có những trận đánh lớn, bọn tàn quân Pol Pot tuy bị ta đánh tan tác nhưng chúng vẫn tản ra và thực hiện “đánh du kích”. Chiếc xe chở quân ta, trong đó có nhà văn Nguyễn Trí Huân, đang di chuyển cùng với một chiếc xe khác chạy trước thì bất ngờ vang lên tiếng nổ của súng B40. Chiếc xe chạy trước bị bốc cháy cuồn cuộn. Rất may bọn lính Pol Pot chỉ đánh lén một phát rồi chuồn nhanh vào rừng. Chiếc xe bị bắn cháy đó chính là chiếc xe mà nhà văn Nguyễn Trí Huân đã ngồi trước đó ít phút, ông được đổi xe đơn giản là vì xe ấy quá đông người ngồi.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân nói nhỏ: “Chuyến đi đó về tôi viết bài ký “Tháng 3 năm 1985”. Có người đã nói vui: Chỉ vì một bài ký xoàng xĩnh mà cậu suýt đổi cả sinh mạng”.

Chừng như chuyện còn nhiều nhưng lúc đó nhà văn Nguyễn Trí Huân có điện thoại, ông đứng dậy để nghe máy. Tôi nói vui theo: “Về hưu hẳn rồi mà bác vẫn bận việc”. Ông nhà văn “Chim én bay” lại đỏ mặt lên: “Viết về người lính và về chiến tranh cách mạng không bao giờ là đủ cả. Điện thoại nhắc nhớ tới dự Cuộc gặp mặt của Tổng cục Chính trị với các nhà văn Quân đội nhân xuân Quý Mão”.

NGUYỄN TRỌNG VĂN/VANVN

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm