TIN TỨC

Thử biện hộ cho các nhà phê bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-13 12:23:21
mail facebook google pos stwis
1267 lượt xem

HOÀI NAM

Lâu nay, khi nói đến văn học Việt Nam đương đại, nghiêm khắc và sòng phẳng, phải thừa nhận rằng nền văn học của chúng ta thiếu vắng một cách đáng lo ngại những tác phẩm lớn, những tác phẩm kết tinh ở bản thân chúng sự đột phá trong tìm tòi nghệ thuật và những trăn trở mang tính triết học về cuộc sống, về thân phận con người.

Đã có nhiều nỗ lực trong việc cắt nghĩa những sự thiếu vắng này: người ta nêu câu chuyện về tự do sáng tác, người ta đặt vấn đề về tài năng và tầm văn hóa của nhà văn v.v... Và, sự thiểu năng của phê bình văn học cũng được tính đến như là một trong những nguyên nhân quy định nên cái thực tế đáng thất vọng ấy.

Tất nhiên, đã và vẫn đang tồn tại nguyên đó những bất cập của phê bình văn học, ví như sự thiếu tính chuyên nghiệp, sự lúng túng trong việc làm chủ và áp dụng những lí thuyết phê bình mới, và người ta có thể sẽ phải trở đi trở lại để nói về những bất cập ấy. Tuy vậy, trong không ít trường hợp, phê bình văn học đang phải gồng mình lên dưới những cái gánh quá nặng, cả những cái gánh vốn không phải của nó. Tôi sẽ thử gọi tên chúng xem sao.


Giáo sư Trương Tửu (1913 - 1999), một trong những nhà phê bình uyên bác và giàu cá tính trong lịch sử phê bình văn học Việt Nam.

Sự khách quan. Yêu cầu nhà phê bình văn học phải có thái độ khách quan khi tiếp cận, tìm hiểu và nhận định đối tượng đã được đặt ra như là một sự điều chỉnh cần thiết trong bối cảnh của một đời sống phê bình quá dư thừa sự xưng tụng: người ta luôn được đọc những bài viết bay bổng, những nhận xét kêu vang, những câu văn đủ sức đánh bóng các tác phẩm các tác giả vốn dĩ là mờ xỉn. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, dường như giữa nhà phê bình và người sáng tác tồn tại một mối quan hệ thân thiết hoặc có lợi đến mức nào đó.

Viết, là để chiều nịnh nhau, tâng bốc nhau, hoặc ít ra cũng là để nhắm tới sự “tranh thủ cảm tình” của nhau. Lối phê bình ấy từ lâu đã được định danh là “phê bình cánh hẩu”. Nó đối lập, tuy không khác về bản chất với một lối phê bình cũng phổ biến không kém, là “phê bình vùi dập”, thứ phê bình của sự thù ghét cá nhân: người viết phê bình vốn không mấy quan tâm đến những phẩm chất thực có của đối tượng, đúng hơn thì mục đích phê bình của anh ta là những “cái gì đó” nằm ngoài văn chương.

Dĩ nhiên là cả hai lối phê bình kể trên đều chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho đời sống văn học. Thế nhưng, điều chỉnh chúng bằng cách đặt yêu cầu rằng nhà phê bình phải “khách quan”, e là một sự điều chỉnh sai hướng. Hành vi phê bình, tự trong bản chất của nó đã thấm đẫm tính chủ quan: Tôi tiếp cận và giải mã tác phẩm bằng toàn bộ sở học của Tôi, bằng sự quy chiếu thẩm mỹ và quy chiếu ý thức hệ của Tôi, bằng con người cảm xúc của riêng Tôi.

Ngay cả trong trường hợp nhà phê bình không “lấy hồn mình để hiểu hồn người” - theo cách của Hoài Thanh - mà dùng các phương pháp của khoa học ngoại quan để mổ xẻ đối tượng - như Trương Tửu quan niệm và thực hành từ rất sớm - thì dấu ấn chủ quan cũng thể hiện khá rõ ở việc mỗi người lại có một cách riêng, không ai giống ai, khi áp dụng cùng một phương pháp.

Có lẽ ở đây, đúng hơn thì phải đặt ra yêu cầu về “sự trung thực”: bất chấp những mối quan hệ cá nhân giữa nhà phê bình và người sáng tác, nhà phê bình phải nói đúng những gì mình đọc được từ tác phẩm, bằng không, anh ta nên im lặng. Có thể nói, đây chính là vấn đề đạo đức của phê bình văn học.

Sự theo kịp. Khá nhiều người, nhất là những người sáng tác, vẫn luôn than phiền trách cứ rằng phê bình hiện nay không theo kịp, không đồng hành được với sáng tác. Tác phẩm văn chương xuất hiện, nhưng nhà phê bình thì cứ như đang “nghỉ mát” hoặc đang “ngủ đông” ở đâu đó. Không phải không có cơ sở trong sự trách cứ này khi mà quả thực có những nhà phê bình đã trở nên ngại áp sát thực tế văn chương, lười đọc, lười nghĩ, lười viết.

Nhưng mặt khác, sự trách cứ cũng bộc lộ những bất cập nhất định. Trước hết, đó là tâm lý nôn nóng của người sáng tác: anh ta muốn, trong thời gian ngắn nhất có thể, đứa con tinh thần của mình phải nhận được sự hỏi thăm chăm sóc của giới phê bình, càng nhiệt tình càng tốt. Sau nữa, một cách dường như không cần phải bàn cãi, người sáng tác tin chắc rằng ít ra thì tác phẩm của anh ta cũng đạt đến tầm vóc nào đó, mang chứa những giá trị nào đó, bỏ qua nó, đó là lỗi của nhà phê bình.

Sự thực là gì? Không một nhà phê bình nào có đủ thời gian và sự kiên nhẫn để đọc cho hết lượng tác phẩm văn chương cứ tuôn ra ào ào hàng ngày, như thác lũ. Thêm nữa, ngay trong những cái mà anh ta đọc được, không phải cái nào cũng đáng để nói tới: tác phẩm phải kết tinh giá trị nghệ thuật và tư tưởng đến một mức độ nào đó thì mới đủ sức mạnh lay động, kích thích, thúc giục nhà phê bình viết về nó (mà những tác phẩm như vậy thì vốn không nhiều trong nền văn học của chúng ta).

Vả lại, ở đây cũng cần phải tính đến yếu tố thời gian. Giá trị mà tác phẩm mang chứa không phải bao giờ cũng được nhận diện ngay lập tức, thời gian sẽ làm cho nó lắng lại, rõ ra, và khi đó mới là lúc bắt đầu công việc của nhà phê bình văn học. Vì thế, đòi hỏi nhà phê bình nhất thiết phải cất tiếng nói ngay khi tác phẩm ra đời, trong nhiều trường hợp, chính là sự ép buộc nhà phê bình phải bán lúa non những ý tưởng của mình.

Chưa hết, yêu cầu một cách riết róng rằng phê bình văn học phải theo kịp với sáng tác, đôi khi lại khiến người ta phủ nhận cái quyền hành nghề của nhà phê bình trên một lĩnh vực hoàn toàn hợp pháp: tác phẩm văn chương ở các thời đại quá khứ. Thực tế khá phổ biến là, cứ hễ viết về tác phẩm nào đó của quá khứ, nhất là những danh tác, những tác phẩm đã ổn định về mặt đánh giá giá trị, nhà phê bình sẽ bị chụp ngay lấy cái mũ “rời bỏ trận địa văn học đương đại”, “chạy trốn, núp dưới cái bóng đổ của những tượng đài văn chương quá khứ” v.v... Những người buộc tội quên, hoặc không ý thức rằng, ở những mảnh đất đã bị cày đi xới lại ấy, đã bị khai thác đến mức tưởng như không thể khai thác thêm gì nữa ấy, sẽ là có giá nếu nhà phê bình phát hiện được cái gì đó mới mẻ. Và càng có giá hơn nếu từ đó nhà phê bình đề xuất được một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm văn chương nói chung, một phương pháp mới mang tính năng sản.

Sự định hướng. Yêu cầu “định hướng” đặt nhà phê bình ở vị thế ông thầy của người sáng tác. Anh ta xác lập những mô hình chuẩn, những giá trị ổn định, và người sáng tác khỏi cần phải nghĩ ngợi, cứ dựa vào đó mà làm theo, như cậu học trò làm theo ông thầy giáo vậy. Nhìn từ giác độ lịch sử, điều này đã từng là một thực tế ở thời Hy Lạp cổ đại với công trình “Nghệ thuật thi ca” của Aristotles, và ở Trung Quốc cổ với công trình “Văn tâm điêu long” của Lưu Hiệp.

Hai nhà bác học này là những nhà lập pháp của hai truyền thống văn chương, họ đưa ra những khuôn mẫu thể loại và những thang giá trị thẩm mỹ bất biến. Tài năng của người sáng tác lớn đến đâu chính là căn cứ vào việc anh ta “làm theo” được đến đâu những khuôn mẫu thể loại ấy và chiếm lĩnh được đến đâu những thang bậc giá trị thẩm mỹ ấy. Đó cũng là câu chuyện trong văn chương Việt Nam một thời chưa xa: nhà phê bình chỉ đường cho người sáng tác, người sáng tác chỉ còn việc phải răm rắp đi cho đúng con đường ấy nếu anh muốn được công nhận. Phê bình văn học ở đây là lối phê bình chủ yếu dựa trên quyết định luận nhị nguyên: phản ánh trung thực/ phản ánh xuyên tạc, đúng/ sai, tốt/ xấu v.v...

Có thể nói, cái sự “định hướng” cho người khác phải “làm theo” của một thời như vậy đã trượt theo đà quán tính đến tận bây giờ và nó tạo thành thứ gánh nặng quá sức đối với nhà phê bình văn học. Bởi, về bản chất, nhà phê bình chỉ là một người đọc có nghề, một “siêu độc giả”, nếu muốn nhấn mạnh. Anh ta đọc tác phẩm rồi đưa ra “cái đọc” của mình về tác phẩm, như một tham khảo cần thiết đến mức nào đó đối với người sáng tác và với công chúng độc giả.

Điều này được khẳng định thêm bởi một sự thực cũng thuộc về bản chất, rằng mỗi một người sáng tác đều là Thượng đế của chính mình: anh ta sáng tạo thế giới văn chương của anh ta theo cách anh ta muốn, thế giới ấy có thể cùng một mô hình với những thế giới có từ trước đó, hoặc thế giới ấy đi ra ngoài chúng, nhạo báng chúng, phá vỡ chúng.

Tóm lại, người sáng tác không cần đến sự “định hướng” của nhà phê bình như một tất yếu, và nhà phê bình cũng không tất yếu phải coi “định hướng” như một thứ trách nhiệm mà mình phải thực hiện bằng bất cứ giá nào trong bất cứ trường hợp nào. Thiết nghĩ, để có thể tôn trọng nhà phê bình văn học và hoạt động phê bình văn học một cách đúng mức nhất, cần phải không được quên lời nhắc nhở của F.Engels: “Gọi sự vật bằng tên của nó và đặt nó vào đúng chỗ của nó”. 

Nguồn: https://cand.com.vn/Ly-luan/thu-bien-ho-cho-cac-nha-phe-binh-i702544/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm