TIN TỨC

Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-05-26 10:24:02
mail facebook google pos stwis
270 lượt xem

Mai Văn Phấn

Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập "Đồng" (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.

Bìa tập thơ Đồng

Vẫn biết với thể thơ truyền thống như lục bát, nếu không có sự sáng tạo trong thi pháp, thơ rất dễ đi vào lối mòn, chỉ là vần điệu du dương, đèm đẹp mà sáo rỗng. Song thi tập mới này của Trần Lê Khánh, gồm 100 bài thơ mang nhan đề "Xứ", được đánh số thứ tự và phân chia thành 11 chương, thực sự là một thứ rượu nồng nàn hương vị mới lạ đựng trong chiếc bình cổ quý giá.

Mở đầu chương 1 của tập thơ "Đồng" là câu lục bát “không cần đếm cho mùa xuân/ bao nhiêu con bướm chân trần lấm hoa”, mở ra một cảnh giới hoàn toàn tự nhiên, hình ảnh trong trẻo, tứ thơ nhẹ nhàng mang hơi thở mùa xuân, nơi vạn vật thảnh thơi, phơi phới, thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí. Sinh vật bé nhỏ ấy, từ khoảnh khắc hiện diện, đã dẫn dắt nhà thơ vào hành trình khám phá, nơi trời đất giao hòa, muôn vật sinh sôi. Hành trình thơ Trần Lê Khánh là cuộc viễn du qua cõi người, thiên nhiên và vũ trụ, đồng thời cũng là cuộc đối thoại sâu sắc với chính mình, với nhân sinh. Mỗi bài thơ trong tập "Đồng" là một “Xứ” – tựa khoảnh khắc lắng đọng, nơi mọi hữu thể đều sống động và đượm màu suy tưởng. Hành trình bắt đầu từ “con bướm chân trần”, biểu tượng của tự do và thơ ngây, để rồi khép lại ở chương cuối với hình ảnh “những bước chân nhỏ” nhẫn nại, cần mẫn của một chú kiến: "Con kiến buộc lại lối đi/ những bước chân nhỏ như vì sao xanh".

Riêng cái nhan đề của tập thơ đã đầy ấn tượng, khơi gợi nhiều cách tiếp cận và suy ngẫm. "Đồng", theo cảm nhận của tôi, biểu đạt hành trình đa chiều: đó là quá trình quy tâm, tỉnh ngộ, thấu hiểu, trở về, thâm nhập, gói gọn, tái tạo bản thể... Và "Đồng", cũng là sự đồng hiện. Từ điểm hội tụ, đồng hiện ấy, vạn vật lại tiếp tục chuyển dịch: triển nở, lan tỏa, tan rã, khuếch tán, phân hủy, bành trướng, truyền bá, thoái trào,... mờ nhạt dần theo dòng chảy của thời gian. Chuyển dịch này tựa như những đợt gió mùa hay cơn sóng khí hậu làm thay đổi cảnh sắc thiên nhiên, tác động đến tâm lý và thể chất con người, xáo trộn mọi nhịp điệu sinh tồn.

ta về phố xá rộn người

nắng vàng nằm gãi ngọn đồi xa xa

(Xứ 99);

 

cơn mưa đổ xuống hai vai

tôi nối tôi với một vài giọt rơi

(Xứ 96)

Biến động của thiên nhiên, vũ trụ trong những câu thơ trên thấm sâu vào tâm lý, cảm xúc và nhịp điệu sống. Những chuyển dịch ấy vừa xáo động tâm hồn vừa mở ra nhận thức về sự tồn tại và mối liên hệ bất tận giữa cái tôi và thế giới. Thiên nhiên không còn là phông nền tĩnh lặng mà trở thành nguồn năng lượng, khơi dậy, thức tỉnh và hòa quyện bản thể con người với nhịp điệu miên viễn của đời sống.

Thơ Trần Lê Khánh là dòng chảy của tâm thức, dẫn dắt người đọc qua nhiều tầng không gian và thời gian. Hành trình ấy trải ra từ xa đến gần, từ sự mờ tối đến sáng rõ, từ ngoại vi đến nội tâm. Đó là quá trình thâm nhập vào tầng sâu tâm thức, nơi cảm nhận và ý niệm được tái sinh trong ánh sáng minh triết, chạm đến cốt lõi bản thể. Trên hành trình này, ngôn ngữ thơ Trần Lê Khánh như những cánh cửa hé mở, nơi từng thi ảnh chứa đựng năng lượng của sự tỉnh thức. Quá trình quy tâm của bản thể được khởi ngay từ bài thơ đầu tiên.

"sân chùa đôi dép để xa

tiếng chuông vọng tới tự va vào trời";

"nhà sư bỗng thấy vắng mình

trong yên lặng đóa hoa quỳnh nở ra"

(Xứ 01)

Hình ảnh "đôi dép" như bật dậy, biến hóa khi nghe tiếng chuông, hay "nhà sư" an trú trong tâm không tĩnh lặng, đã mở ra những tầng ý nghĩa ẩn dụ sâu xa trong trùng trùng duyên khởi. Ở đó, tâm thức con người hiện ra như một thực thể vừa độc lập vừa hòa nhập, đặt ra câu hỏi: đó là tiếng nói của cá nhân hay sự tan hòa trong dòng chảy ý niệm? Những vần thơ của Trần Lê Khánh, tuy bình dị và gắn liền với đời thường, lại ẩn chứa triết lý sâu sắc về bản thể, về mối tương quan giữa cái tôi và vũ trụ.

"rót tiếng chân vào con đường

cho đầy những chuyện bình thường cuối năm"

(Xứ 04);

"người về rót xuống cụm mây

thế là quán xá trổ đầy khách quen"

(Xứ 27)

Những câu thơ của Trần Lê Khánh phảng phất hoài niệm và khát vọng tái hồi, như một nỗ lực hòa nhập với cái nguyên sơ, thuần khiết. Anh dẫn dắt người đọc vào cõi trầm mặc và sâu lắng, nơi sự trở về không chỉ là hành động mà còn là sự thẩm thấu của ý niệm.

"nắng vàng về lót ban mai

con đường khẽ dụi lên vài bước chân

rõ ràng trong cõi trầm luân

mây đổ bóng xuống ba lần mới thôi"

(Xứ 30);

 

"mai về hớt váng bình minh

cho xanh con phố cuốn mình theo em"

(Xứ 32)

 

Những động từ như "lót", "dụi", "đổ", "hớt", "cuốn" chất chứa sự vun đầy, chu kỳ hóa của đời sống. Chúng biểu đạt một cuộc quay về mang tính vĩnh cửu, phản ánh bản chất bất biến của vòng luân hồi: trầm luân, chuyển hóa, và tái sinh. Trong đó, con người lặng lẽ để lại dấu ấn của mình, hòa quyện với dòng chảy miên viễn của vũ trụ.

"hồng hoang rục rịch heo may

gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân

 

nhà sư đang bước sang tuần

nắng vàng xóa hết phần thân con đường"

(Xứ 41)

Hình ảnh trong đoạn thơ trên khơi mở một cảnh giới trầm mặc và uyên áo. Con người và vạn vật dường như tan hòa vào sự thuần khiết nguyên sơ. Câu thơ "gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân" cho ta cảm giác kỳ diệu của sự trở về, diễn đạt sự vận động vi diệu của thời gian và tâm thức, nơi sự tái sinh hòa cùng nhịp thở phồn thịnh của vũ trụ.

Nhà thơ Trần Lê Khánh

Lại có những câu thơ khơi mở dòng chuyển hóa từ ý niệm đến hình hài, từ sự tái sinh trong tâm tưởng đến sự hiện diện của đời sống, gợi lên suy tư sâu sắc về cách con người biến đổi niềm tin, ký ức và cảm xúc thành những dấu vết hữu hình trong dòng chảy vô tận của thời gian:

"tháng giêng em khẩn thần linh

con rối đừng tưởng mình sinh ra rồi"

(Xứ 45);

 

"những ngày sông nhớ quê hương

ta thèm kết lại bằng khuôn mặt người"

(Xứ 58)

Chốn quy tụ trong thơ Trần Lê Khánh là những điểm đột sáng, những khoảnh khắc xuất thần, tạo ra nguồn năng lượng tâm linh:

"chùa thiêng ngọn cỏ cũng linh

ánh đèn chỉ xéo lên mình chúng sanh"

(Xứ 63)

“Ánh đèn chỉ xéo” là ngọn lửa thắp sáng trong mông lung cõi người, là ánh sáng khai minh, khải thị, chạm đến chiều sâu tâm thức, để lại một khoảng sáng lặng lẽ trong lòng người đọc.

Hay hình ảnh con nhện đầy hối hận đối diện với tội lỗi trong khoảnh khắc tĩnh lặng dưới đây:

"con nhện xưng tội trên cao

em cầm cây thước khẻ vào mông lung"

(Xứ 06)

Cây thước ở đây dường như đang đo đạc cái vô tận của đời sống và chiều sâu bản thể con người, hay chiều sâu của sự suy tư.

Những thi ảnh trong các cặp lục bát tiếp theo là các đơn vị phân mảnh, được sắp đặt trong không gian nghệ thuật hiện đại:

"trăng soi mặt giếng nước trong

còn nguyên mùi đất mà lòng vô tư"

(Xứ 03);

 

"sông còn giữ sóng nổi không

bàn tay ta vỗ lên dòng nước xanh"

(Xứ 08)

Mặt giếng và lòng người, sóng nước và tiếng vỗ của bàn tay được kết nối qua nguồn mạch tâm linh, giao thoa giữa cái thoáng qua và miên viễn.

Thơ Trần Lê Khánh thấm đẫm tư tưởng Phật giáo, thể hiện qua những chiêm nghiệm sâu sắc về vô thường, sắc-không, và buông bỏ. Tác giả khắc họa sự mong manh của đời sống thế tục, sự nhỏ bé và vô định của con người trong vũ trụ. Thơ anh là lời mời gọi hướng đến tỉnh thức, giác ngộ, và giải thoát khỏi những ràng buộc của tham, sân, si, mở ra con đường đến sự an lạc và tự tại trong tâm hồn.

"sân chùa nắng chiếu lung linh

những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau"

(Xứ 11)

“Sân chùa” là biểu trưng cho sự thanh tịnh và bình yên, nơi mọi vật được phản chiếu trong ánh sáng của trí tuệ và từ bi. Hình ảnh "những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau" gợi lên sự buông bỏ, tự giải thoát khỏi những ràng buộc và chấp niệm. Đây cũng là phép ẩn dụ cho sự tha thứ, khi con người học cách rời xa những mâu thuẫn, xóa nhòa những dấu vết của cái tôi để hòa nhập vào sự an nhiên của cõi tịnh.

Trong cảnh giới ấy, mọi xung đột, khổ đau đều là hư vô, chỉ còn lại sự giao hòa giữa con người và vũ trụ. Và đây là hình ảnh của hành trình tìm kiếm sự chiêm nghiệm nội tâm:

"tôi ngồi thắp sáng lòng tôi

linh hồn chảy giọt mồ hôi lạ lùng"

(Xứ 19);

 

"dặn người rửa sạch bàn chân

trong cơn mộng mị dễ lần ra nhau"

(Xứ 26)

Đó là quá trình soi sáng từ bên trong, sự tự nhận thức và giác ngộ, nhận ra những ảo tưởng của thế gian mà con người dễ dàng bị cuốn vào.

Sự lan tỏa và chuyển dịch từ chân thực đến mơ hồ, từ trung tâm ra ngoại biên, không chỉ phản ánh dòng chảy bất định của vũ trụ mà còn khơi gợi những tầng nghĩa khác biệt từ nhan đề "Đồng". Nhan đề này gợi lên sự hòa quyện và kết nối, nơi mọi yếu tố trong cuộc sống không ngừng tương tác, chuyển hóa và hòa nhập vào tổng thể. Đồng thời, nó nhấn mạnh sự cân bằng giữa cái cụ thể và cái mơ hồ, giữa hiện hữu và tan biến.

"có một hạt cát ra đi

bỏ lại chỗ trống cho vì sao hôm"

(Xứ 02)

Hình ảnh hạt cát gợi lên ý niệm về sự đổi mới, vòng tuần hoàn và sự vận động không ngừng của thời gian.

"một ngày chợt tẽ thành đôi

rồi chiếc nhánh mọc ra tôi như là"

(Xứ 14)

Chiếc nhánh mọc ra từ “tôi” biểu thị sự triển nở của sinh mệnh, đồng thời là dấu hiệu kết nối giữa thực tại và mơ hồ.

"mượn người cũng đã đủ lâu

những giọt nước mắt ngẩng đầu đi ra"

(Xứ 37)

Câu thơ trên mở ra khoảng trống đầy ám gợi, mở ra sự tan biến và tái sinh, làm nổi bật vòng tuần hoàn của sự sống. Qua chu kỳ sinh thành, phân rã, và hòa tan, nó dẫn dắt người đọc cảm nhận nhịp điệu vô định của "Đồng", nơi vạn vật giao thoa và biến chuyển không ngừng.

Đó là sự nhập nhòa giữa thực và mơ, giữa hữu hình và vô hình, như dòng chảy của thời gian cuốn mọi thứ vào màn sương huyền ảo:

"bóng người lẫn với mùa thu

làm sao em biết sương mù đang tan"

(Xứ 38)

Sự khiêm nhường trước vũ trụ bao la được thể hiện qua hình ảnh trả lại những gì không thuộc về mình:

"em vay mặt nước nhỏ nhoi

trả con thuyền giấy về trời một đêm"

(Xứ 40)

Hay sự tiếp nối của dòng đời, dù tổn thương nhưng vẫn không ngừng chảy, mang theo ký ức từ những lần gặp gỡ, những chia ly, những dang dở:

"trăng va phải tảng đá ngầm

con sông mang một vết bầm đi xa"

(Xứ 42);

 

"ngọn gió lẫn vào hoang vu

ta chưa kịp gửi vào thu một người"

(Xứ 48)

Có những câu thơ khơi gợi sự mất mát và chuyển hóa, khi những gì tưởng chừng vĩnh cửu lại tan biến để nhường chỗ cho một chu kỳ mới.

“nhà sư cất chiếc đèn dầu

ngọn lửa cháy đỏ lắc đầu ra đi”

(Xứ 36)

"Ngọn lửa" là đạo lý, là chân lý không bao giờ biến mất, có lúc nó chỉ tạm "ra đi", để rồi lại đến, lại thắp sáng.

“người đi qua chốn ừ ào

vết nhàu trên áo đâu hao vải mềm”

(Xứ 54)

Đó là câu triết lý về tính không, mọi thứ chỉ là tạm bợ, không thực sự thuộc về chúng ta. Hoặc một ẩn dụ về ràng buộc, tham ái và chấp trước – những mối dây kết nối dù bám víu vào đâu, cũng chỉ dẫn đến sự tan biến, để lại sự trống rỗng trước dòng chảy sinh diệt của vũ trụ:

“con nhện giăng một sợi yêu

mắc vào đâu cũng mất tiêu lòng mình”

(Xứ 57)

Một hình ảnh khác tượng trưng cho thời gian thoáng qua, nhưng cũng là sự tái tạo thế giới:

“mùa thu tàn sao quá nhanh

em lau quả đất cho xanh bầu trời”

(Xứ 53)

Và những câu thơ như "em chìm trong một mùa sương/ dấu chân in xuống con đường hiện thân” (Xứ 56) diễn tả sự hòa nhập và chuyển hóa, từ sự ra đi đến sự trở về; hoặc “bóng mình đã ngủ no nê/ nhà sư đứng dậy dắt về đỉnh non” (Xứ 73) biểu đạt sự vượt thoát khỏi bản ngã để đạt đến sự thăng hoa, giác ngộ.

Thơ Trần Lê Khánh thể hiện suy niệm triết học sâu sắc về sự sống, cái chết và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Câu thơ "ta quỳ bên chiếc lá rơi/ nghìn năm mà đất trả lời chưa xong” (Xứ 88) gợi sự đối diện với vô thường và câu hỏi về sự sống, cái chết, mở ra nhãn quan triết học về bản thể con người; “nhà sư từ thuở bước qua/ con giun đất đỏ bới ra chân trời” (Xứ 89) là hình ảnh của cuộc tìm kiếm sự thật vĩnh cửu và sự giác ngộ.

Không chỉ thế, thơ anh còn kết hợp với sự dí dỏm, vừa sâu sắc vừa nhẹ nhàng, vui tươi. Sự dí dỏm này thể hiện qua cách chơi chữ, hình ảnh bất ngờ và sự đối lập giữa hiện thực và ẩn dụ. Những câu thơ như “áo em kín cổng cao tường/ kẻ trộm dễ kéo con đường ra xa” (Xứ 17); hay “tôi ngồi đỏ ửng hai tai/ em về ran rát như vài giọt mưa” (Xứ 64) là sự nghịch đảo hình ảnh, biến hiện thực thành siêu thực.

Những câu thơ tài hoa của Trần Lê Khánh mở ra những cánh cửa vô hình, dẫn dắt tâm trí vào những khoảng không khép mở đầy bất ngờ, nơi sự giao thoa giữa thực tại và siêu nhiên không ngừng chuyển động. Thi ảnh của anh ẩn chứa những lớp nghĩa song trùng, tinh tế và sâu lắng, như trong câu“nhà sư đi giữa bụi trần/ nắng vàng nằm lót bàn chân trên đường” (Xứ 80), thi ảnh gợi lên một hành trình từ thực tại (“bụi trần”) đến giác ngộ (“nắng vàng”); hoặc trong câu “bóng đêm và những ngọn đèn/ cùng chia nhau giữ người quen bên đường” (Xứ 87), thi ảnh thể hiện sự giao thoa giữa vô thường và hữu thường, giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự dân dã trong thơ Trần Lê Khánh tạo ra cảnh trí gần gũi, giản dị, nhưng ẩn chứa những suy tư sâu sắc về cuộc sống.

“người đàn bà lặt mớ rau

bỏ vào nồi nước đặt sau đời mình”

(Xứ 07)

 

“hỡi người chóng chán cả thèm

cuộc đời là lúc người quen cạn dần”

(Xứ 10)

Những hình ảnh đời thường trong "Đồng" không chỉ phản ánh thực tại mà còn mở ra những tầng ý nghĩa về không-thời gian và mối quan hệ trong đại thiên thế giới. "Một giây nữa là đến mai/ ngọn khói lơ lửng khoan thai thả hình" (Xứ 34). Đó là khoảnh khắc tâm thức con người bỗng trở nên sáng tỏ, khi mọi lớp màn vô minh, tham ái, và chấp ngã tan biến. Không còn sự xao động, tâm trí chìm vào tĩnh lặng, nơi chỉ còn lại sự sáng suốt nguyên sơ. Trong phút giây ấy, mọi vọng tưởng lặng im; tham, sân, si nhường chỗ cho tỉnh thức. Con người chợt nhận ra bản chất vô thường, vô ngã của vạn pháp, nhận ra mình không còn tách biệt với vũ trụ. Ranh giới giữa "cái tôi" và "cái khác" mờ dần, để rồi bản thể hòa tan vào dòng chảy vô hạn của chân lý. Tôi chọn câu thơ trong "Xứ 34" làm nhan đề bài viết này, bởi nó soi sáng con đường sáng tạo của Trần Lê Khánh, một con đường thấm đẫm sự tỉnh thức và hòa điệu với vũ trụ.

Với thể lục bát truyền thống, Trần Lê Khánh vừa gìn giữ giá trị cốt lõi vừa tái tạo nó trong cấu trúc hiện đại, mang đến nhịp điệu phóng khoáng và nghệ thuật tu từ sáng tạo. Những hình ảnh trong thơ đôi khi thay đổi bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh và khơi dậy những cảm xúc sâu lắng nơi người đọc. Thi tứ đôi lúc tưởng chừng vu vơ, nhưng lại bất ngờ dẫn dắt vào những triết lý sâu sắc, khiến người đọc suy ngẫm về sự tồn tại, về mối tương quan giữa hữu hạn và vô hạn. Tác giả kết hợp vẻ đẹp cổ điển với nét phóng khoáng hiện đại, đôi lúc mang sự chênh vênh, nhưng chính sự chênh vênh ấy lại trở nên quyến rũ, dẫn dụ người đọc vào trạng thái cân bằng, chiêm nghiệm và lắng đọng. Tập thơ "Đồng" của Trần Lê Khánh mở ra một cánh cửa nghệ thuật độc đáo, nơi thơ ca trở thành không gian suy niệm, kết nối sâu sắc giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ.

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm