TIN TỨC

Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-18 11:53:40
mail facebook google pos stwis
152 lượt xem

“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương. Với bài viết sâu sắc dưới đây, cây bút trẻ Ngô Xuân Vy đã phân tích tinh tế sự hòa quyện hiếm hoi giữa cái nhìn thời sự và chiều sâu nhân văn – một bản ngã báo chí được thức tỉnh trong vỏ bọc lặng thầm của một nhà văn. Một bài viết lay động và gợi suy tư, đặc biệt đối với những ai đang sống với nghiệp chữ nghĩa và sự thật”
 

NGÔ XUÂN VY

Chọn ngẫm cùng Dưới gầm trời lưu lạc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng là chấp nhận một cuộc đồng hành đặc biệt: cuộc lữ hành giữa sự thật khốc liệt của đời sống và vẻ đẹp đầy ám ảnh của văn chương. Không đơn thuần là một tập bút ký, cũng không chỉ là những ghi chép báo chí kiểu truyền thống. Nó là sự kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, thấu hiểu với nỗi đau và cứng cỏi trong hành trình đi đến tận cùng sự thật.

Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng - một cây bút sắc sảo, giàu bản lĩnh trong làng báo chí điều tra, nay lại hiện diện với một giọng điệu khác: đằm sâu, man mác buồn, nhiều chất suy tư, hơn là phơi bày. Anh không từ bỏ nghề báo, mà đưa báo chí lên một nấc thang khác, nơi chữ nghĩa vừa mang tính thời sự, vừa mang tính nhân sinh. Và chính ở nơi ấy, người đọc bắt gặp một Đỗ Doãn Hoàng, một nhà báo viết văn, trong hình hài đầy mâu thuẫn mà quyến rũ.

1. Khi văn chương là đường dẫn ngầm vào lòng sự thật

 Dưới gầm trời lưu lạc gợi mở một không gian gập ghềnh, bất định. Gầm trời: một cách nói ngược đầy thi vị, như thể tác giả đang bước đi trong bóng tối của hiện thực, nhưng đôi mắt luôn ngước tìm vòm trời cao. Lưu lạc: không phải là sự lạc lối, mà là hành trình không ngừng nghỉ của một kẻ đi tìm con người, đi tìm chân lý trong những xó xỉnh bị lãng quên.

Và quả thật, từ những trang đầu tiên, chúng ta nhận ra đây là cuốn sách được viết bằng đôi chân của một nhà báo từng đi, từng chứng kiến, từng chịu va đập, nhưng lại thấm đẫm linh hồn của một nhà văn “Từ bấy, những vườn bướm màu sắc, những bãi biển mê hồn, những kiến trúc thực dân, cả sự tử tế chan hoà và lối sống chậm bên các toà cao ốc của người cù lao Cau luôn khiến tôi nhung nhớ...” Những phận người xuất hiện trong sách: người mẹ gùi con đi qua biên giới, người đàn ông làm nghề bẫy rắn, bé gái đi nhặt than bên bờ suối chết. Tất cả đều là thật, nhưng dưới ngòi bút của tác giả, họ không chỉ là những nhân vật báo chí, họ trở thành biểu tượng của nỗi chịu đựng, của khát vọng sống và vẻ đẹp tiềm tàng nơi tận cùng thống khổ.

Văn chương của Đỗ Doãn Hoàng không tô hồng sự thật, không làm dịu đi nỗi đau, nhưng lại có một cách rất riêng để khiến người đọc phải dừng lại, phải nghĩ ngợi. Anh không giật tít bằng cảm xúc rẻ tiền, mà lay động bằng hình ảnh: một cái nhìn xa xôi, một bàn tay lạnh run, một tiếng thở dài trong đêm rừng. Từng chi tiết nhỏ ấy, được níu kéo để sống dậy từng trang văn. 

2. Nhà báo và sự cô độc trong vai trò người kể chuyện

Làm báo đã là đơn độc. Làm báo mà còn mang trong mình tâm hồn nhà văn - đó là một kiểu cô độc khôn nguôi. Dưới ngầm trời lưu lạc là nơi Đỗ Doãn Hoàng hiện lên như một lữ khách bị lưu đày khỏi thế giới ồn ào, thực dụng. Anh đi xuyên qua những vùng đất “ngoài lề truyền thông”, không phải để săn tin mà để lắng nghe. Anh không quan tâm đến tốc độ đăng tải, mà đau đáu về điều chưa kịp nói.

Không ít lần, Hoàng để người đọc cảm nhận sự trống trải trong chính hành trình của mình. Giữa núi rừng heo hút hay trên chuyến xe đêm đổ về miền biên viễn, nhân vật “tôi” trong sách luôn mang theo sự lặng thầm, ngẫm ngợi. Nhà báo ấy không đơn thuần là người thu thập tư liệu, mà còn là kẻ đối thoại với chính mình: “Tôi đã viết đủ chưa? Tôi có quyền kể về nỗi đau của người khác không?”.

Đó là câu hỏi của một người viết có lương tri – điều đang trở nên hiếm hoi giữa thời đại mà nhà báo dễ bị cuốn vào vòng xoáy của tin nhanh. Và chính vì có lương tri, anh mới dám đau, mới dám chọn cách viết khó hơn, chậm rãi, sâu sắc, thậm chí không “thời sự” nữa, nhưng lại mang tính vĩnh cửu.

3. Sự hòa quyện hiếm hoi giữa chất liệu đời và tinh thần văn học

Dưới ngầm trời lưu lạc có kết cấu như một bản giao hưởng với nhiều cung bậc. Mỗi bài viết là một chương, mỗi nhân vật là một nốt nhạc. Nhưng điểm kỳ lạ là: dù đề tài đa dạng từ người tị nạn, di cư, thân phận người lính cũ, đến những vùng đất hoang sơ, thì toàn bộ cuốn sách vẫn mang một nhịp điệu thống nhất: nhịp của sự cảm thông.

Đỗ Doãn Hoàng không kể chuyện như một nhà báo, anh kể như một người từng sống qua đời sống của nhân vật. Anh viết bằng trải nghiệm, bằng va đập, bằng sự “đắm chìm” chứ không “tác nghiệp”. Ở đó, ngôn ngữ báo chí được chuyển hóa thành ngôn ngữ văn học.

Không nhiều nhà báo có khả năng tạo ra những hình ảnh như thế. Nhưng Hoàng không làm vậy để phô diễn. Anh viết như một bản năng. Và điều ấy làm nên chất riêng: vừa nhòe ranh giới giữa báo chí và văn học, vừa định hình một dòng chảy mới cho thể loại bút ký hiện đại, nơi con chữ vừa mang tin, vừa mang tình.

4. Một tấm gương soi lại nghề viết: Thức tỉnh và tự vấn

Có thể nói, Dưới ngầm trời lưu lạc không chỉ là cuốn sách để đọc, mà còn là để soi. Soi vào những giới hạn của nghề viết hôm nay. Soi vào những câu hỏi muôn thuở: Viết để làm gì? Viết cho ai? Và liệu người viết còn đủ can đảm để đặt nhân phẩm lên trên sự nghiệp?

Bằng chính lối viết nhiều tầng bậc của mình, Hoàng đã đặt ra những tiêu chuẩn ngầm cho người làm báo mang tâm hồn văn sĩ: Không thỏa hiệp với sự dễ dãi. Không đánh mất sự đồng cảm. Và quan trọng nhất: không từ bỏ trách nhiệm kể lại thế giới này bằng đôi mắt nhân văn nhất có thể.

Không phải ai cũng cần viết như Hoàng. Nhưng đọc Hoàng, người làm báo sẽ thấy mình cần sống sâu hơn với nghề. Người đọc sẽ thấy mình cần chậm lại để lắng nghe. Và văn chương trong cái vỏ bọc báo chí, sẽ lại có chỗ đứng như một thứ ánh sáng, soi vào những góc khuất mà ánh đèn thời sự thường bỏ qua, một ngòi bút mang dáng dấp của đôi chân.

Người ta thường ví ngòi bút nhà báo như một thứ vũ khí. Nhưng ở Đỗ Doãn Hoàng, ngòi bút không chiến đấu bằng sự giận dữ, mà bằng sự lặng thầm của một đôi chân không ngừng lưu lạc. Chân đi đến đâu, chữ thấm đến đó. Chân bước vào vùng tối, chữ hóa thành ánh sáng.

Dưới ngầm trời lưu lạc là minh chứng cho một kiểu viết hiếm hoi, nơi nghề báo không là kẻ thợ săn thông tin, mà là người hành hương. Và Đỗ Doãn Hoàng, trong sự hòa quyện giữa nhà báo và nhà văn, đã viết nên một hành trình đầy ám ảnh, đầy cảm xúc, khiến người đọc không thể thờ ơ, khiến người làm báo phải nhìn lại mình.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người thơ mang áo blouse
Bài của Đại tá nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
Xem thêm
Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều
Bài viết của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
Xem thêm
Nụ hôn – biểu tượng của ký ức và lòng nhân hậu
Qua lăng kính bình thơ của hai nữ nhà thơ Minh Hạnh và Nguyễn Thị Phương Nam, người đọc có thể cảm nhận được những “nụ hôn” mang hình dáng đất nước
Xem thêm
Văn chương và những ngộ nhận đáng buồn
Tôi đã đọc một số bài thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từ những năm trước, nó như có tính “dự báo”, “dọn đường” cho trường ca “Lò mổ” ra đời tạo được tiếng vang. Và thi ca với sứ mệnh thiêng liêng của nó, qua trường ca “Lò Mổ” cũng sẽ vượt qua biên giới của lý trí để tới với bạn bè năm châu bốn biển.
Xem thêm
Vai trò của chúa Trịnh với thương cảng Phố Hiến
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, địa danh Phố Hiến vừa thân thương vừa thân thuộc trong trí nhớ mọi người. Phố Hiến từng là một thương cảng lớn sầm uất và quan trọng bậc nhất của xứ Đàng ngoài (miền Bắc Việt Nam).
Xem thêm
Những nụ hôn chữa lành
Đọc tập thơ Ấm lòng những nụ hôn như thế của Phạm Đình Phú
Xem thêm
Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh
Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.
Xem thêm
“Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh
Cảm nhận về bài thơ cùng tên trong tập thơ của Phạm Đình Phú – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM
Xem thêm
Bước đầu tìm hiểu 50 năm thơ Bình Định (1975-2025)
Bình Định – vùng “Đất võ trời văn” – không chỉ nổi tiếng với truyền thống thượng võ, mà còn là mảnh đất đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa.
Xem thêm
Sự hồi quang ký ức trong “Bài thơ cánh võng”
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang
Xem thêm
Văn học Bình Dương – 50 năm một hành trình lặng lẽ và bền bỉ
Bài viết công phu của tác giả Nguyễn Quế không chỉ khắc họa hành trình văn học của vùng đất Thủ suốt 50 năm qua...
Xem thêm
5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”
Bài viết của Lương Cẩm Quyên sẽ đưa bạn đọc khám phá một hồn thơ đầy bản lĩnh, dám giễu đời...
Xem thêm
Thời đương đại nghe lời thơ lục bát ru tình
Bài viết của Tiến sĩ Hà Thanh Vân
Xem thêm
“Nghiêng về phía nỗi đau” - Từ góc nhìn lý thuyết chấn thương
Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Mặc khải của nước, lửa &…
Bài của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm