TIN TỨC

Lê Lựu và bước chuyển của văn xuôi Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-11-17 23:34:54
mail facebook google pos stwis
1704 lượt xem

Tác phẩm của Lê Lựu là cột mốc giao thời, chuyển từ giai đoạn văn học chiến tranh và mở ra con đường của văn học đổi mới từ 1986 kéo mãi về sau.

Nhà văn Lê Lựu (1938 – 2022)

Nhà văn Lê Lựu sinh năm 1942* tại xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông nhập ngũ năm 17 tuổi, từng làm phóng viên báo Quân khu 3, phóng viên chiến trường tại mặt trận 559. Sau theo học Trường Bồi dưỡng viết văn Quảng Bá (của Hội Nhà văn Việt Nam), làm biên tập viên, trưởng ban Văn xuôi, rồi thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông về hưu với quân hàm đại tá. Sau khi nghỉ hưu ông thành lập và làm giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân Việt Nam.

Nhà văn theo đuổi nguyên tắc: thật

Ít ai biết nhà văn Lê Lựu xuất hiện lần đầu tiên trên báo là một cái tin 26 chữ về diệt ruồi. Kể từ đó con đường chữ nghĩa mở ra với ông, nhưng không phải với văn chương, mà là với báo chí.

Chỉ đến khi tham ra trại viết hồi kí do Quân khu 3 mở năm 1963, được các nhà văn như Xuân Thiêm, Xuân Sách, Nguyễn Khải… về nói chuyện, hướng dẫn viết lách ông mới nhận ra nhiều điều, học hỏi thêm từ những người đi trước.

Tổng kết trại ông gửi nộp bài viết về trận đánh qua lời kể của một người trong cuộc. Dự buổi tổng kết nhà phê bình Nhị Ca góp ý thẳng thắn về bài viết của ông, bảo ông chỉ nên viết những gì mình thuộc, mình biết.

Góp ý nhỏ ấy của nhà phê bình đã mở ra cho nhà văn con đường mà bấy lâu đang tìm kiếm. Từ đó, lần lượt các tác phẩm ra đời, đa dạng thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, truyện dài thiếu nhi như: Người cầm súng (1970), Phía mặt trời (1972), Đánh trận núi con chuột (1976), Mở rừng (1977), Ranh giới (1977), Campuchia một câu hỏi lớn (1979), Ở phía sau anh (1980), Đồng bằng chiến sĩ (1980), Thời xa vắng (1986), Mặt trận của người lính (1986), Một thời lầm lỗi (1988), Trở lại nước Mỹ (1989), Đại tá không biết đùa (1990), Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000), Lê Lựu tạp văn (2002), Thời loạn (2009), Chuyện quê ngày ấy (2010), Gã dở hơi (2012)…

Thế mới thấy văn là người, nó cũng đúng với cách nghĩ của nhà văn Lê Lựu về nghề văn: “Tôi là người ít học, ít đọc, vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là ‘THẬT’. Tôi không thể viết nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người chép truyện, có gì viết nấy”.

Ở đây cái thật cần được hiểu không phải cái thô ráp, xù xì bê nguyên xi từ cuộc sống vào trang văn; mà cái thật ở đây là cái thật trong mắt nhà văn, đã được sàng lọc, tinh luyện nhiều lần trên trang giấy, cộng thêm vốn sống tích lũy ngày này qua ngày khác. Về điểm này nhà văn Lê Lựu gần gũi với người thầy của mình, nhà văn Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng chỉ viết cái mà mình có, mình thấy, những trang văn vì thế đi thẳng từ trái tim và trải nghiệm mà ra.

Dấu mốc Thời xa vắng

Không phải đến ba cuốn tiểu thuyết được trao giải của Hội Nhà văn năm 1991 gồm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường văn học đổi mới Việt Nam mới bắt đầu.

Công cuộc đổi mới diễn ra nhiều năm trước đó, về truyện ngắn nổi bật có Nguyễn Huy Thiệp, về tiểu thuyết có Thời xa vắng của Lê Lựu (hoàn thành vào năm 1984, xuất bản năm 1986). Cuốn tiểu thuyết đã đánh dấu một bước chuyển của văn học Việt.

Con người được trả về đúng vị trí của mình, có đầy đủ hỉ nộ ái ố, dằn vặt, đau đớn, khắc khoải, tiếc nuối, căm thù, biết ơn…

“Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có, đến bây giờ mới biết mình như thế nào thì lại…”.

Lời của nhân vật Giang Minh Sài ở những chương cuối truyện như hồi chuông đánh thức các nhà văn cùng thời cần nghĩ khác, viết khác. Nó là cột mốc giao thời, chuyển từ giai đoạn văn học chiến tranh và mở ra con đường của văn học đổi mới từ 1986 kéo mãi về sau.

Cuốn tiểu thuyết viết về cuộc đời nhân vật Giang Minh Sài, một người học giỏi, niềm tự hào của gia đình dòng họ. Nhưng cũng chính sự tự hào đó đã khiến Sài không được làm theo điều mình muốn.

Lúc nào anh cũng phải suy nghĩ, làm theo sự chỉ đạo của những người thân, với lý do đó là điều tốt nhất cho anh. Nhưng tốt nhất theo ý người thân rốt cuộc không phải là tốt nhất cho anh. Cái người anh yêu không được lấy mà phải lấy người do cha mẹ chọn, ngủ cùng vợ, sinh con đẻ cái cũng vì giữ gìn danh tiếng gia đình nơi làng quê.

Nửa đời về sau khi có thể lựa chọn cái mình cần thì anh lại lựa chọn nhầm, lựa chọn cái mình không có mà tưởng là có, cuối cùng gánh lấy sự tủi nhục, đau khổ, dằn vặt trong tâm hồn.

Cuộc đời Sài cũng là cuộc đời tiêu biểu của một tầng lớp người trong giai đoạn đó, cũng lớn lên ở làng quê, nhập ngũ, giải ngũ đi từ chiến tranh bom đạn ra, phải đối mặt với cơ chế bao cấp đang chuyển đổi dần sang cơ chế thị trường.

Giữa thời giao tranh nhộm nhoạm hỗn độn thật giả đó con người rất khó nhận ra đâu mới là chân giá trị của cuộc sống. Anh Giang Minh Sài trong truyện cuối cùng trở về làng quê, làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp Hạ Vị. Anh làm đúng việc mình cần làm là xây dựng, mở mang làng quê nghèo khó của anh, để người dân không còn khổ như trước. Hạ Vị vì thế chỉ qua vài năm đã như một vùng đất mới ai bứng ở đâu về. Hình như với anh Sài, đến lúc ấy anh mới là chính mình.

Cuốn tiểu thuyết vừa ra đời đã tạo được tiếng vang lớn, là cú hích vào văn chương đương thời. Đến năm 2003, phim điện ảnh Thời xa vắng chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên ra đời đã nhận được giải Cánh diều bạc (không có Cánh diều vàng) của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 2005, tạo được dư luận tốt với đông đảo người xem.

Cái tên Sài, cùng cái tên Núi (trong tiểu thuyết/phim truyền hình Sóng ở đáy sông) từ tác phẩm văn học, từ phim đi vào đời sống hàng ngày. Điều này cũng như Chí Phèo, Thị Nở của Nam Cao, Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng, Mị của Tô Hoài…

Nhà văn Lê Lựu cũng chính là nhà văn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ sau chiến tranh. Ông là sứ giả hòa bình, là cây cầu nối thúc đẩy việc bình thường hóa hai nước thông qua các cựu chiến binh của cả hai bên.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình nhà văn Lê Lựu đã giành được nhiều giải thưởng như: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ 1967-1968 với truyện ngắn Người cầm súng; Giải A Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984 với tiểu thuyết Thời xa vắng; Giải nhất cuộc thi do Bộ Lao động Thương binh xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Văn hóa tổ chức năm 1970- 1971 với truyện vừa Người về đồng cói; Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 năm 2001.

Nhưng giải thưởng quan trọng nhất với ông là giải thưởng trong lòng bạn đọc.

HÀ CHI/ ZING

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm