TIN TỨC

Nhà thơ Phạm Phương Lan: Xác tín lời ru

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-12-01 09:41:08
mail facebook google pos stwis
2445 lượt xem

TRẦN QUANG QUÝ

Khâu tình là một nỗ lực của Phạm Phương Lan, hy vọng những mũi khâu đan của chị cho tấm thảm thơ, cho tấm thảm tình yêu… ngày càng đẹp lên.

Cái tựa sách Khâu tình của Phạm Phương Lan quả khiến cho người đọc có một chút tò mò.

Tình của nàng ra sao nhỉ, nó “rách” thế nào, và cái sự khâu tình là lạ, nghe cũng có vẻ đa đoan rồi. Nàng khâu được không đây? Bởi, tình yêu không phải lúc nào cũng cơm ngon canh ngọt như người ta mơ ước, nhất là với những người đẹp, lại có cá tính mạnh mẽ?

60 bài thơ trong Khâu tình, chủ yếu là thơ tình; một đôi bài viết về mẹ, tình mẹ; một vài bài viết về mùa, mùa thu, vận khí của trời đất trong “thời tiết yêu”, nhiều mơ ước… Và ở đây, Phương Lan sử dụng khá nhiều thơ ngũ ngôn truyền thống, theo lối “thung thăng” kể dẫn và vần điệu, giàu nữ tính, nhiều cảnh ngộ, tình huống, buồn vui giằng xé trong những đợi chờ, nhớ nhung, thất vọng và hy vọng như là thuộc tính của người phụ nữ đa đoan, yêu thương diết dóng.

Nhưng thực ra, tình yêu ở Khâu tình không đến mức chao chát, “ngầu” và “phơi tông” như tôi tưởng ban đầu mà nó “da diết lành”, nữ tính và hồn hậu hơn; như Em & ngày không anh chẳng hạn: “Ngày không anh và gió/ Nắng hờn đôi môi xinh/ Tóc loà xoà sợi nhỏ/ Vương mắt nào long lanh”. Hờn một chút xíu thôi, với thi ảnh đẹp “Nắng hờn đôi môi xinh” và sau đó tự bộc bạch nỗi niềm tâm sự của mình trong bẫng lẫng trống vắng, dễ thương làm sao: “Em tâm hồn cỏ dại/ Em gót chân phố đông/ Lạc loài như cơn gió/ Giữa ngày hè không anh/ Lạc loài như cỏ dại/ Giữa phồn hoa thị thành”.

Thế mà anh không đến, thế là em lạc loài, dù đã “Hây hẩy tóc em thơm mùi tắm gội/ Nức những ái ân” (Thơm mùi tắm gội). Lại đây, một ngày không anh nữa nhưng là “Ngày mai không anh”, nghĩa là cái chưa đến, cái giả định của tình yêu, Phạm Phương Lan đã biểu lộ cảm xúc và trạng huống hiện tại của tương lai. Lúc ấy nàng thơ đang: “Khát cháy ruột gan/ Bờ môi khô vắng nụ cười vang/ Vắng nụ hôn nồng hương say cuồng dại/ Mái tóc mây sóng xoài thẫn thờ khờ dại”. Trong cảm giác cô đơn, trống rỗng vắng tình: “Em đi về phía ấy hương say/ Khật khưỡng ngày không anh/ Không tình yêu/ Không mây chiều/ Không lời hẹn hò, lả lơi luyến ái/ Không một sợi buồn vắt ngang cơn mưa rồ dại/ Chỉ có áng chiều rơi trên hai vai”. Đi mãi, đi mãi trong cái chiều tương lai lạ lùng, khát vọng và cô hoang ấy, đến nỗi: “Chiều nay/ Bờ môi vỡ rạn/ Hạn hán nỗi buồn, trống rỗng mi cay”.

Đến cả nỗi buồn cũng hạn hán, nhưng không khô héo đến tuyệt vọng, bởi có niềm tin tự tại và tiếp tục hy vọng: “Máu chảy mềm tim/ Em ở trong mình/ Ngực tràn hơi ấm/ Như lá hoa đón chờ làn sương ẩm”. Cái làn sương ẩm của tâm hồn, của tính nữ làm dịu đi “hạn hán nỗi buồn”! Chính vì có niềm tin yêu trong tình yêu, rộng lớn hơn là tin yêu vào tình người, mặc dù tình người trong xã hội đương đại cũng đang bị thách thức bởi sự vô cảm, bởi cái ác… làm băng hoại đạo đức xã hội ghê gớm; nhưng người thơ tự “trấn an” mình, tự ru cái sự lận đận, có màu sắc đa đoan, nhiều nếm trải của mình: “Ru tình nào sợi mây/ Ru đời làn môi ấm/ Ru ta thôi lận đận/ Vùi vào giấc mơ ngày./…/ Mi thèm giấc ngủ say/ Tóc thèm hương yên ấm/ Ta thèm mùa sâu đậm/ Giọt yêu thương vơi đầy” (Giọt yêu thương vơi đầy).

Cả đây nữa, dù có nếm trải cay đắng thế nào thì xác tín của lời ru, tức sự tĩnh tại và niềm tin vào cái tình, cái đẹp… thêm một lần được Phạm Phương Lan khẳng định rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn, mà vẫn “ngào ngạt” hương vị cuộc đời: “Ru tình nhé một đời ngào ngạt/ Ru mình nhé dẫu lòng tan tác” (Trầm tích không lời). Thơ tình Phạm Phương Lan nhiều ru, nhiều say, nhiều mùa bảng lảng, nhiều thảng thốt của trái tim dịu dàng, ẩn giấu “trầm tích” nữ hơn là sự “dấn thân” bạo liệt. Nói thế, không phải Phạm Phương Lan thiếu mạnh mẽ, thiếu nhiệt năng bùng cháy của tình yêu, và đây là một hiển lộ như vậy: “Em muốn là con sóng/ Vùi giấc ngủ mệt nhoài/ Sau đêm tình bỏng cháy/ Ai cứ cười mặc ai” (Tình ơi tha thiết).

Ai cũng biết làm cả một tập thơ tình là rất khó, nếu không tinh, dễ bị lặp trạng huống, mô típ. Khâu tình là một nỗ lực của Phạm Phương Lan, hy vọng những mũi khâu đan của chị cho tấm thảm thơ, cho tấm thảm tình yêu… ngày càng đẹp lên.

TQQ
(Lời tựa tập thơ Khâu tình)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm