TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-23 16:00:01
mail facebook google pos stwis
955 lượt xem

                               Vũ Nho

Trong số những bài thơ của Hồ Xuân Hương (HXH) do hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại được Antony Landes thuê về tận nhà của Trưởng tràng Tử Minh, học trò cụ Hồ Phi Diễn sưu tầm, có một số bài nghi là hai ông đã chép lại của Lê Thánh Tông, sửa đổi một số chữ nhằm lấy…thưởng! (Vì càng nhiều bài sưu tầm được thì tiền trả càng hậu). TS. Phạm Trọng Chánh từng viết rằng : “Tập thơ này nhiều bài lẫn lộn với thơ vua Lê Thánh Tôn, tôi cho rằng đó là những bài thơ Hồ Xuân Hương yêu thích, là mẫu mực thi ca của bậc thầy, cần thiết trả lại các bài thơ Chợ Trời, Đánh Đu, đền Khán Xuân.. cho ông Vua Thơ Nôm Lê Thánh Tôn”. ( nguồn : https://vietbao.com/a310365/ho-xuan-huong-chan-dung-va-tac-pham.).

Đây là bài thơ của vua Lê Thánh Tông:

CÂY ĐÁNH ĐU

Bốn cột lang, nha cắm để chồng,

 Ả thì đánh cái, ả còn ngong.

Tế hậu thổ, khom khom cật,

Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng.

Tám bức quần hồng bay phới phới,

Hai hàng chân ngọc đứng song song.

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,

Nhổ cột đem về để lỗ không.

(nguồn: thivien.net)

Lang, nha được chú thích -  Lang: Cây cau. Nha: Cây dừa, những thứ cây cứng dùng làm cột cây đu.

Còn bài Đánh đu được xem là của Hồ Xuân Hương

ĐÁNH ĐU

Tám cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Hai hàng chân ngọc duỗi song song

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

 

Mầy điều nhận xét

Một đằng là thơ của thi sĩ nhà vua từ thế kỉ 15, một đằng là thơ được cho là của Hồ Xuân Hương (HXH), thế kỉ 18. Có khác biệt ở nhan đề: Cây đánh đu – Đánh đu. Khác biệt là nhà vua nói vật liệu dựng đu gồm cau và dừa. Nhà vua tả các cô gái chơi đu: Ả thì đánh cái, ả còn ngong (1). HXH  không nói vật liệu, lại tả đu đôi, một nam một nữ. Nhà vua miêu tả động tác của người nhún đu mô phỏng lễ nghi: tế hậu thổ khom khom cật, vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng. HXH tả giới tính của người  chơi đu: Giai du gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Nhà vua  tả: Tám bức quần hồng (2) bay phới phới/Hai hàng chân ngọc đứng song song. Hai cô gái nên tám bức quần hồng. HXH tả: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Vì tả 1 cô nên giảm số quần hồng xuống còn một nửa (Tám/ Bốn). Nhà vua viết “đứng”, HXH thay bằng “duỗi”.

Câu thơ kết, nhà vua nhận xét:

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
 Nhổ cột đem về để lỗ không.

HXH thì nêu câu hỏi:

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

 Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

Đáng chú ý là cột dựng đu, nhà vua hai lần nhắc “cột”, HXH đầu bài viết “cột”, cuối bài lại viết là “cọc”!

Có thể nhận xét tổng quan rằng bài “Đánh đu” rõ ràng dựa trên bài “Cây đánh đu” có làm khác biệt đi một số điều. Việc làm sai khác này rõ nhất là tả một NAM, một NỮ chơi đu. Lại còn tả cụ thể:

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Rồi thay cho “chân đứng” bằng “chân duỗi”, thay “cột” bằng “cọc”!

Những sự thay đổi này nhằm gợi chuyện “đánh đu” với  “chuyện ấy”! Đây không phải là HXH chép lại thơ của vua Lê Thánh Tông như là “mẫu mực thi ca” như TS Phạm Trọng Chánh nhận định. HXH đã nhuận sắc bài “Cây đánh đu” thành bài “Đánh đu”. Và xu hướng gợi “chuyện ấy” rõ ràng, nổi trội hẳn lên so với bài của nhà vua. Bài “Đánh đu” là một bài thơ khác hẳn bài “Cây đánh đu”!

Trong cuốn khảo cứu của mình, tôi xếp bài “Đánh đu” vào mục tồn nghi (Vũ Nho – Hồ Xuân Hương đời và thơ trên những tư liệu mới, nxb Hội Nhà Văn, 2022, trang 175-176). Nay so sánh 2 bài, có thể nghĩ rằng HXH đã nhuận sắc bài thơ kia thành một văn bản mới, đậm chất HXH.  Nếu bài “Cây đánh đu” của vua Lê Thánh Tông chỉ nói về việc đánh đu của chị em phụ nữ, thì rõ ràng bài “Đánh đu” của HXH không chỉ nói chuyện đánh đu, mà con gợi chuyện dục tình. Nó đúng với thơ HXH mà GS. John Balabal (Mĩ), người đã dịch thơ HXH ra tiếng Anh và xuất bản hơn 20.000 bản ở Mĩ đã nhận xét: “…Sự thực gây kinh ngạc nhất chính là: một phần lớn các bài thơ của bà – mà mỗi bài là một kiệt tác viết theo thể thơ đường luật - đều chứa đựng hai nghĩa song trùng. Mỗi bài ẩn giấu trong chính nó một bài thơ khác với ý nghĩa dục tình”. (Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, tập 1, Nhà xuất bản Nghệ An, 2022, tr. 123).

Có thể coi đây là bài riêng của HXH mà hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại đã về tận làng Nghi Tàm, gặp con của Trưởng tràng Tử Minh để ghi chép lại.

Xin các vị cao minh chỉ giáo cho!

                                     Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2024

V.N

-------

  1. Có thể coi việc chơi đu là môn thể thao  chủ yếu dành cho chị em phụ nữ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông  tả các chị em chơi đu. Sau này Nguyễn Khuyến cũng viết:

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo

( Hội Tây)

  1.  Quần hồng - Hồng quần : chỉ chị em phụ nữ. Quần màu hồng, con gái nhà quyền quý thời cổ Trung Hoa thường mặc. Chỉ  phụ nữ nói chung. Đoạn trường tân thanh có câu: “Phong lưu rất mực hồng quần”.

        

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm