TIN TỨC

Ngồi trước mộ mình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-18 18:11:09
mail facebook google pos stwis
1593 lượt xem

HUỲNH VĂN HOA

Cuộc chiến nào cũng vậy. Bên cạnh những trang sử hào hùng, oanh liệt, thì cũng có những trang bi kịch, quặn lòng. Đây cũng là điều dễ hiểu,nhất là đối với dân tộc ta, một dân tộc đi qua bao cuộc chiến đấu, để lại bao nhiêu là núi vọng phu, để lại bao nhiêu là những số phận đớn đau, khôn nguôi dằn vặt.

Nguyễn Đức Mậu, một người lính làm thơ, có một bài thơ như cung đàn lặng thầm, nao buồn. Nguyễn Đức Mậu sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948 tại xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Nhập ngũ năm 1966, chiến đấu ở chiến trường Lào. Sau hòa bình, ông làm biên tập viên, học Trường viết văn Nguyễn Du, khóa I. Sau đó, làm Trưởng ban thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Phó chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam.

Từng trực tiếp cầm súng trong những năm chiến tranh, nhà thơ hiểu rõ những hào hùng và bi tráng của chiến tranh, hiểu cái giá của sự hy sinh, của hòa bình. Nguyễn Đức Mậu có Màu hoa đỏ, Thuận Yến phổ nhạc, gây nên bao xúc động về một thế hệ lên đường cứu nước.

Lần này, Nguyễn Đức Mậu dựng lên hình tượng khó quên, hình ảnh người phế binh, sau bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc, cô độc, trở về. Đó là bài thơ NGƯỜI NGỒI TRƯỚC MỘ MÌNH:

Sau bốn mươi năm báo tử. Ông về

Thấy ảnh mình trên bàn thờ

Thấy ảnh mình trên bia mộ

Có phải ông một thời trai trẻ

Phải ông người trong ảnh ngày xưa?

 

Bốn mươi năm

Mẹ cha ông lúc xuôi tay nhắm mắt

Mong nằm cạnh con mình

Mộ ông, chiếc tiểu sành không hài cốt

 

Ông trở về trước mộ cha, cúi mặt

Trước mộ mẹ khấn thầm

Hình hài xiêu vẹo

Tuổi chiều nắng tắt ...

 

Nấm mộ ông đắp bằng nước mắt

Hương khói tỏ mờ mỗi đận Thanh minh

Trước bia đá cỏ xanh

Người phế binh dại ngây khuôn mặt

 

Ông nhẩm nhớ những người đã mất

Một con thuyền trong đêm chiến tranh

Bom rơi đặc trời, máu loang mặt nước

Bao người chết. Chết không tìm được xác ...

 

Bao người chết. Chỉ mình ông sống sót

Hơn bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc

Người phế binh ngồi trước mộ mình

           NGUYỄN ĐỨC MẬU (Viết và Đọc - Chuyên đề mùa thu 2022)

Bài thơ có 6 khổ, kể về một phế binh, sau hơn bốn mươi năm sống sót, lưu lạc xứ người, nay trở về và ngồi trước mộ mình. Một nỗi buồn lặng thầm về một số phận sau chiến tranh lan tỏa trên từng dòng thơ. Bài thơ không chỉ viết về một số phận, một bi kịch cá nhân trong chiến tranh. Đằng sau nó, đó là, những thân phận của nhân dân mình, một nhân dân qua lửa đạn, sau bốn mươi năm hòa bình, sau bao người ngã xuống, không về và có người trở về:

Bao người chết. Chỉ mình ông sống sót

Hơn bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc

Người phế binh ngồi trước mộ mình

Chuyện kể: Sau bốn mươi năm báo tử. Ông về. Nghĩa là, trong ký ức mọi người, ông đã chết. Ông đã chết thật rồi trong hơn bốn mươi năm đó ! Ông có giấy báo tử, có ảnh trên bàn thờ, có ảnh trên bia mộ. Rõ ràng là như vậy mà người trở về vẫn không tin, vẫn cứ hỏi "Có phải", "Phải":

 Có phải ông một thời trai trẻ

 Phải ông người trong ảnh ngày xưa ?

Những câu hỏi như xoáy vào tâm can, dằng dặc của thời gian bốn mươi năm dâu bể, của bốn mươi năm thay đổi của xóm làng họ mạc. Câu hỏi về sự thay hình đổi dạng một con người của ngày xưa và hôm nay, con người trên bia mộ, trên ảnh thờ và con người sống sót, xiêu lạc đất khách quê người, trở về không nguyên vẹn như ngày ra đi. Bi kịch nằm ở đó.

Câu chuyện tiếp tục:

Bốn mươi năm

Mẹ cha ông lúc xuôi tay nhắm mắt

Mong nằm cạnh con mình

Mộ ông, chiếc tiểu sành không hài cốt

Những ngày tháng cuối đời, trước khi nhắm mắt xuôi tay, từ biệt  cõi đời, mẹ cha ông chỉ mong ước duy nhất: nằm cạnh con mình. Có điều, bên ngoài chiếc tiểu sành không hài cốt đó, có một con người bằng xương thịt đang vật vờ, phiêu dạt xứ người. Tội nghiệp cho cha mẹ, hôm nay, ông về đây, về trước mộ cha, mộ mẹ, trong tuổi xế chiều của cuộc đời với hình hài không vẹn nguyên, xiêu vẹo:

Ông trở về trước mộ cha, cúi mặt

Trước mộ mẹ khấn thầm

Hình hài xiêu vẹo

Tuổi chiều nắng tắt ...

Ông nhìn ngôi mộ của mình, ngôi mộ đắp bằng nước mắt, nước mắt nhớ thương của cha mẹ, của người thân trong hơn bốn mươi năm đằng đẵng. Khói hương mờ tỏ trong "mỗi đận Thanh minh", nhớ ông. Trước tấm bia đá, trời vẫn xanh, cỏ vẫn xanh, chỉ có riêng ông "dại ngây khuôn mặt":

Nấm mộ ông đắp bằng nước mắt

Hương khói tỏ mờ mỗi đận Thanh minh

Trước bia đá cỏ xanh

Người phế binh dại ngây khuôn mặt

Phút giây ấy, ông nhớ về cuộc chiến, "bom rơi đặc trời, máu loang mặt nước / nhẩm nhớ những người đã mất / bao người chết. Chết không tìm được xác" và chỉ mình ông sống sót, thành phế binh, bao nhiêu năm nơi quê người, nhớ nhớ quên quên, về ngồi trước ngôi mộ của mình:

Ông nhẩm nhớ những người đã mất

Một con thuyền trong đêm chiến tranh

Bom rơi đặc trời, máu loang mặt nước

Bao người chết. Chết không tìm được xác ...

 

Bao người chết. Chỉ mình ông sống sót

Hơn bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc

Người phế binh ngồi trước mộ mình

Trong bài thơ, hai lần nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nói đến: Người phế binh dại ngây khuôn mặt / Người phế binh ngồi trước mộ mình, nhiều câu thơ nói đến bom rơi, máu loang, chết không tìm được xác ... khiến người đọc cảm thấy không yên lòng khi trả lời, rằng là, số phận những người đã chết và số phận người sống sót, lưu lạc, ốm đau, dại ngây khuôn mặt khi trở về, nỗi dau và bi kịch nằm ở phía nào? 
 

Nguyễn Đức Mậu, sau bốn mươi năm, viết về một cuộc chiến khác. Một cuộc chiến không có tiếng bom rơi đạn nổ. Một cuộc chiến đầy nước mắt, cô độc, dằng dặc nỗi buồn sau mỗi con chữ, sau mỗi trĩu nặng ưu tư về số phận người lính sống sót, trở về, lẳng lặng ngồi và nhìn mộ mình, nhớ làng quê, nhớ cha mẹ và đồng đội.

 Nguồn: Đà Nẵng cuối tuần, số 8139, ngày 19/02/2023.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mặc khải của nước, lửa &…
Bài của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm